Nhân chuẩn bị Hội nghị Tổng kết 05 năm thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế quản lý cụm công nghiệp (CCN), Bản tin Khuyến công đã có bài phỏng vấn Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp địa phương Ngô Quang Trung về việc triển khai, thực hiện Quy chế trên cả nước và những kết quả đạt được.


Được biết, Cục CNĐP đang giúp Bộ Công Thương chuẩn bị cho công tác Tổng kết 05 năm thực hiện Quy chế quản lý cụm công nghiệp, xin ông cho biết một số kết quả chủ yếu trong việc thực hiện Quy chế quản lý CCN tại các địa phương trên cả nước đến nay như thế nào?

Phó Cục trưởng Ngô Quang Trung: Ngày 19/8/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg ban hành Quy chế quản lý CCN. Sau 05 năm triển khai thực hiện Quy chế đã đạt được những kết quả nổi bật như sau:
Trước hết, Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg đã tạo ra khung pháp lý thống nhất quản lý CCN từ Trung ương đến các địa phương; làm cơ sở cho các cơ quan quản lý, chủ đầu tư hạ tầng và các đơn vị liên quan chấp hành đúng chủ trương, quy định của nhà nước về phát triển CCN.


Thứ hai, căn cứ vào nhiệm vụ được giao tại Quy chế quản lý CCN, các Bộ, ngành đã chủ động ban hành các văn bản hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện các nội dung liên quan; UBND các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương đã tích cực tổ chức phổ biến chính sách, quy định về quản lý CCN đến các Sở, ngành, UBND cấp huyện và các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân liên quan, đồng thời chỉ đạo tổ chức thực hiện nghiêm túc các nội dung của Quy chế quản lý CCN như: Tổ chức lập, phê duyệt Đề án quy hoạch phát triển trên địa bàn; rà soát, xử lý các CCN hình thành trước Quy chế quản lý CCN theo thẩm quyền; thành lập, mở rộng CCN theo quy định; xây dựng, phê duyệt thực hiện cơ chế ngân sách địa phương hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng CCN; xây dựng ban hành thực hiện Quy chế phối hợp giữa các sở, ngành và UBND cấp huyện trong việc quản lý CCN trên địa bàn; giao Sở Công Thương làm cơ quan đầu mối tổ chức thực hiện quản lý CCN trên địa bàn.


Thứ ba, công tác quy hoạch, thành lập, đầu tư xây dựng hạ tầng và quản lý hoạt động của CCN ngày càng được UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhận thức đúng mức, tổ chức thực hiện theo trình tự, quy định của pháp luật; hạn chế tối đa phát triển CCN tràn lan, thiếu quy hoạch như trước đây.


Bốn là, việc thực hiện cơ chế hỗ trợ hạ tầng CCN từ NSTW thời gian qua đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc, cố gắng của Nhà nước đối với  phát triển công nghiệp nói chung, phát triển CCN nói riêng; từ đó, giúp cho các doanh nghiệp (chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ gia đình, cơ sở sản xuất cá thể) ở khu vực nông thôn tiếp cận được mặt bằng thuận lợi, ổn định để đầu tư sản xuất kinh doanh. Tuy kinh phí hỗ trợ chưa được nhiều nhưng bước đầu đã góp phần tích cực cùng ngân sách địa phương hỗ trợ các chủ đầu tư hạ tầng tháo gỡ khó khăn về vốn để đầu tư một số hạng mục hạ tầng thiết yếu, nhanh chóng thu hút đầu tư, tăng tỷ lệ lấp đầy, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH tại các địa phương.


Năm là, việc đầu tư phát triển hạ tầng CCN trong điều kiện khó khăn về nguồn vốn nhà nước, khả năng thu hút vốn đầu tư hạ tầng từ các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nhưng bước đầu đã đáp ứng được mặt bằng sản xuất cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ cá thể, các cơ sở sản xuất công nghiệp ở nông thôn để đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh ổn định; tận dụng phát huy được lợi thế về đất đai, nguồn nguyên liệu, tay nghề lao động sẵn có tại địa phương; góp phần di dời các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm môi trường ra khỏi khu dân cư, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt tại các làng nghề.


Ông có thể cho biết, trong thời gian qua, việc triển khai thực hiện Quy chế quản lý CCN ở các địa phương gặp những thuận lợi và khó khăn ra sao?
Phó Cục trưởng Ngô Quang Trung: Về thuận lợi, thời gian qua Chính phủ, các Bộ ngành và các địa phương ngày càng quan tâm hơn đến công tác quản lý, đầu tư phát triển CCN. Thể hiện cụ thể như sau:
- Sau khi Quy chế quản lý CCN của Thủ tướng Chính phủ được ban hành, các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành các văn bản theo thẩm quyền để hướng dẫn thực hiện Quy chế, tạo hành lang pháp lý tương đối rõ, giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước về CCN và các tổ chức, cá nhân có liên quan quản lý, đầu tư phát triển CCN hoạt động thuận lợi và hiệu quả hơn.


Giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Thủ tướng Chính phủ có cơ chế hỗ trợ đầu tư hạ tầng đối với CCN tại các địa bàn kinh tế-xã hội khó khăn (giai đoạn đến năm 2010 tại các Quyết định 25/2008/QĐ-TTg và Quyết định 27/2008/QĐ-TTg ngày 05/02/2008; giai đoạn 2010-2015 tại Quyết định 60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010). Các Quyết định nêu trên của Thủ tướng Chính phủ đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc, cũng là sự cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Chính phủ đối với sự nghiệp phát triển CCN nói riêng và phát triển công nghiệp nông thôn nói chung; đáp ứng một phần mong mỏi lâu nay của các địa phương cũng như của Bộ Công Thương. Ngoài ra, nhiều địa phương đã ban hành và triển khai thực hiện cơ chế hỗ trợ phát triển CCN trên địa bàn. Mặc dù kinh phí hỗ trợ của NSTW, ngân sách địa phương chưa nhiều nhưng bước đầu đã góp phần tích cực giúp các chủ đầu tư hạ tầng tháo gỡ khó khăn về vốn để đầu tư một số hạng mục hạ tầng thiết yếu, nhanh chóng thu hút đầu tư, tăng tỷ lệ lấp đầy, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn.


Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Quy chế quản lý CCN ở các địa phương thời gian qua còn gặp một số khó khăn như: Sau khi Quy chế quản lý CCN ban hành, đúng thời điểm nước ta chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới nên việc đầu tư phát triển CCN, thu hút doanh nghiệp vào cụm nói chung gặp khó khăn.


Bên cạnh đó, thời gian qua, một số địa phương còn lúng túng trong triển khai các nội dung của Quy chế quản lý CCN, phân công cơ quan đầu mối quản lý, tổ chức rà soát, xử lý và kiểm tra theo dõi tình hình đầu tư xây dựng các CCN còn chậm. Đăc biệt, một số địa phương còn chưa chấp hành nghiêm túc quy định của Quy chế như: Bổ sung, phê duyệt quy hoạch CCN không đúng quy định, không phù hợp chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 02/3/2012 về việc chấn chỉnh công tác quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế, khu công nghiệp và CCN; bố trí, chấp thuận dự án đầu tư vào CCN chưa phù hợp với mục tiêu quy hoạch; chưa rà soát, bãi bỏ kịp thời một số văn bản hành chính của địa phương không còn phù hợp với Quy chế,...


Tổ chức, bộ máy cán bộ, công chức quản lý nhà nước về CCN từ Trung ương đến địa phương còn thiếu về số lượng, đa số thiếu kinh nghiệm trong công tác quản lý nhà nước nói chung và quản lý CCN nói riêng; sự phối hợp giữa các Sở, ngành, UBND cấp huyện tại nhiều địa phương chưa nhịp nhàng, chặt chẽ,... dẫn đến chất lượng, hiệu lực quản lý chưa cao.


Ngoài ra, việc triển khai thực hiện nội dung cụ thể của Quy chế  quản lý CCN đã bộc lộ những bất cập trong thực tế như: Một số quy định của Quy chế không còn phù hợp với các quy định mới của pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp, xây dựng, đất đai, bảo vệ môi trường được ban hành trong thời gian qua; Quy chế không có quy định cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển CCN (gồm ưu đãi đầu tư vào CCN, hỗ trợ đầu tư hạ tầng CCN, các hoạt động hỗ trợ phát triển CCN); Tiêu chí, điều kiện, thủ tục thẩm định, phê duyệt quy hoạch, thành lập, mở rộng CCN kèm theo các biểu mẫu hướng dẫn chưa chặt chẽ, cụ thể; Điều kiện xác định, thành lập Trung tâm phát triển CCN làm chủ đầu tư hạ tầng CCN ở các địa phương không rõ, dẫn đến triển khai còn lúng túng;  Việc quản lý các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng và dự án sản xuất kinh doanh trong CCN ở địa phương chưa rõ cơ quan đầu mối hướng dẫn, hỗ trợ thực hiện các thủ tục hành chính liên quan; Việc phân công trách nhiệm của các Bộ, ngành, Ủy ban nhân cấp tỉnh, các Sở, ngành  và UBND cấp huyện trong hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu quản lý CCN hiện nay; Chưa có quy định cơ chế thống kê, báo cáo số liệu về tình hình quy hoạch, đầu tư xây dựng hạ tầng và hoạt động của các CCN nên gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là thống kê giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị xuất khẩu, nộp ngân sách,... của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong CCN.


Xin ông cho biết, cần tiếp tục có những cơ chế, chính sách như thế nào để việc quản lý và phát triển CCN đạt hiệu quả cao trong thời gian tới?
Phó Cục trưởng Ngô Quang Trung: Quy chế quản lý CCN ban hành kèm theo Quyết định 105/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Trong quá trình thực hiện thời gian qua đã bộc lộ những bất cập, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn và các chủ trương mới của Đảng, Nhà nước trong các lĩnh vực đầu tư, doanh nghiệp, cải cách môi trường kinh doanh, xây dựng, đất đai, bảo vệ môi trường,...


Để tiếp tục đẩy mạnh đầu tư xây dựng phát triển CCN một cách hiệu quả, quản lý chặt chẽ, hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp đầu tư kinh doanh theo đúng chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, khắc phục những bất cập của Quy chế quản lý CCN thì cần thiết phải xây dựng, ban hành Nghị định của Chính phủ về CCN nhằm hoàn thiện khung pháp lý đủ mạnh để quản lý, phát triển CCN trong thời gian tới.


Hiện nay, Cục CNĐP đang tham mưu giúp Bộ Công Thương hoàn thành báo cáo tổng kết, đánh giá 5 năm thực hiện Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg. Qua tổng hợp, đánh giá bước đầu, chúng tôi cho rằng, một số nội dung chính cần sửa đổi, bổ sung về công tác quản lý CCN như: Các tiêu chí quy hoạch, thành lập, mở rộng CCN cần sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ thể, chi tiết về trình tự thủ tục, hồ sơ trong công tác lập và phê duyệt để đảm bảo quản lý chặt chẽ, hiệu quả, khả thi trong quá trình triển khai; Về mô hình chủ đầu tư xây dựng hạ tầng CCN theo hướng khuyến khích doanh nghiệp làm chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng;  Có cơ chế phối hợp các cơ quan quản lý ở địa phương trong việc hướng dẫn, giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến triển khai dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng CCN và các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh trong CCN theo nguyên tắc một đầu mối, tại chỗ để hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn; Bổ sung các quy định về cơ chế hỗ trợ, chính sách phát triển CCN, đặc biệt là phát triển CCN ở các địa phương có điều kiện KT-XH khó khăn; Phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể hơn của từng Bộ trong việc chỉ đạo thực hiện công tác quản lý nhà nước về CCN, phân công trách nhiệm cụ thể đối với các Sở, ban, ngành tại địa phương, UBND cấp huyện trong công tác quản lý CCN trên địa bàn.


Trân trọng cảm ơn Ông!
 

Phòng TTTT thực hiện