Tiếp nối đà phục hồi từ cuối năm 2023 và những tháng đầu năm 2024, sản xuất công nghiệp tiếp tục cho thấy xu hướng tích cực. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, IIP ước tính tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,0%).

Theo báo cáo tình hình sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại tháng 5 năm 2024, Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất của Việt Nam trong tháng 5/2024 đạt 50,3 điểm, cho thấy các điều kiện kinh doanh của ngành đã cải thiện nhẹ tháng thứ hai liên tiếp, trong đó nổi bật là sản lượng ngành sản xuất tăng tháng thứ hai liên tiếp. Hoạt động mua hàng tiếp tục tăng trong tháng 5/2024 nhờ nhu cầu hàng hóa tăng mạnh, các công ty thu hút được khách hàng và các đơn đặt hàng mới, số lượng đơn đặt hàng mới tại các doanh nghiệp tiếp tục tăng mạnh. Do vậy, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 5/2024 ước tính tăng 3,9% so với tháng trước và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, so với cùng kỳ năm trước, ngành chế biến, chế tạo tăng 10,6%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,4%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,4%; riêng ngành khai khoáng giảm 9,4%. Một số địa phương, trong đó có các địa phương có quy mô công nghiệp lớn có IIP tháng 5/2024 tăng cao so với tháng trước như: Quảng Ngãi tăng 86,3%; Bắc Ninh tăng 13,1%; Cần Thơ tăng 7,5%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 6,6%; Thanh Hóa tăng 5,1%; Bắc Giang tăng 4,3%; Đà Nẵng tăng 4,1%...

Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, IIP ước tính tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,0%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 7,3% (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,6%), đóng góp 6,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 12,7% (cùng kỳ năm 2023 tăng 1,2%), đóng góp 1,1 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,3% (cùng kỳ năm 2023 tăng 5,9%), đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5,2% (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,4%), làm giảm 0,8 điểm phần trăm trong mức tăng chung.

Sản xuất công nghiệp tăng trưởng trên diện rộng với 55 địa phương có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng so với cùng kỳ năm trước, chỉ có 8 địa phương có IIP giảm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số địa phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá do: (i) ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao so với cùng kỳ năm trước (như Phú Thọ tăng 31,2%; Bắc Giang tăng 24,9%; Bình Phước tăng 14,8%; Hà Nam tăng 14,5%; Hải Phòng tăng 14,4%); (ii) ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao so với cùng kỳ năm trước (như Khánh Hòa gấp 5,4 lần; Trà Vinh tăng 95,9%; Thanh Hóa tăng 33,3%; Hải Dương tăng 21,1%; Hải Phòng tăng 17,2%; Phú Thọ tăng 15,0%; Bắc Giang tăng 14,6%). Ở chiều ngược lại, một số địa phương có chỉ số IIP giảm do: (i) ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước (như Hà Giang tăng 0,4%; Bắc Ninh tăng 0,05%; Hà Tĩnh giảm 9,0%; Quảng Ngãi giảm 8,2%; Cà Mau giảm 2,5%); (ii) ngành sản xuất, phân phối điện giảm so với cùng kỳ năm trước (Sơn La giảm 40,1%; Hòa Bình giảm 27,7%; Quảng Ngãi giảm 19,9%; Lâm Đồng giảm 9,3%; Gia Lai giảm 4,1%).

Chỉ số sản xuất năm tháng đầu năm 2024 của một số ngành trọng điểm cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 27,4%; sản xuất thiết bị điện tăng 24,0%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 20,1%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 19,6%; sản xuất kim loại tăng 13,2%; ngành dệt và ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí cùng tăng 12,7%. Ở chiều ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành tăng thấp hơn mức bình quân chung hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 5,8%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 5,4%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị giảm 11,8%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 11,0%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 5,1%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 1,7%; khai thác than cứng và than non giảm 1,3%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực năm tháng đầu năm 2024 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Thép thanh, thép góc tăng 33,8%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 20,2%; đồng hồ thông minh tăng 19,7%; thép cán tăng 18,0%; phân u rê tăng 14,6%; phân hỗn hợp N.P.K tăng 12,6%. Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Khí hoá lỏng (LPG) giảm 21,2%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 15,6%; ti vi giảm 10,4%; dầu mỏ thô khai thác giảm 5,6%; sắt, thép thô giảm 5,2%.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/5/2024 tăng 1,0% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 3,2% so với cùng thời điểm năm trước tiếp tục cho thấy những tín hiệu tích cực về sự phục hồi của sản xuất công nghiệp.

Nguồn: moit.gov.vn

Ảnh: Sưu tầm