Hiện nay, tỉnh Quảng Bình có 15 làng nghề với các nghề truyền thống như chế biến nước mắm, mây tre đan, chiếu cói, làm nón lá, rèn đúc, làm bún bánh...

Cùng với hàng loạt chính sách hỗ trợ phát triển tiểu thủ công nghiệp, hoạt động khuyến công đã góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân, góp phần ổn định kinh tế xã hội của địa phương.


Đầu tư phát triển tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn.


Từ năm 2005, Quảng Bình đã có nhiều chủ cơ sở sản xuất và hộ cá thể gia đình mạnh dạn đầu tư hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ đồng để phát triển sản xuất, điển hình như: XN chế biến Tơ tằm Minh Thành, chế biến nguyên liệu mây Phương Bắc, Sản xuất nước tinh khiết Suối Mơ, Sơ chế mũ cao su Lê Hoá (Tuyên Hoá); Bên cạnh đó còn rất nhiều doanh nghiệp chế biến các sản phẩm thuỷ sản ăn liền, chế biến nước mắm, nước tinh khiết, chế biến mủ cao su, sản xuất các sản phẩm composit, sản xuất mộc mỹ nghệ, đóng và sữa chữa tàu thuyền, gia công cơ khí ...và hàng trăm dự án phát triển sản xuất khác, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế địa phương, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động và tăng thu nhập cho bà con ở địa bàn nông thôn.


Nhằm hỗ trợ nguồn nhân lực cho các cơ sở sản xuất, giai đoạn 2005-2009 nguồn kinh phí Khuyến công đã tham gia hỗ trợ đào tạo 4000 lao động, chủ yếu là các ngành nghề: mây tre đan; nón lá; thêu ren; may công nghiệp; đóng tàu thuỷ. Đến nay số lượng lao động được đào tạo có việc làm ổn định. Nguồn kinh phí khuyến công cũng đã hỗ trợ cho hàng trăm lượt cơ sở thay đổi công nghệ, đầu tư mở rộng phát triển sản xuất. Các cơ sở, doanh nghiệp được đầu tư hỗ trợ từ nguồn vốn khuyến công đã mạnh dạn đầu tư mở rộng cơ sở, thay đổi công nghệ, đào tạo lao động và đặc biệt là thay đổi phương thức sản xuất kinh doanh phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn trong tình hình mới. Bên cạnh đó, khuyến công còn động viên và huy động các nguồn lực trong nước và ngoài nước tham gia hoặc hỗ trợ các tổ chức các nhân đầu tư sản xuất công nghiệp nông thôn và các dịch vụ khuyến công theo quy hoạch phát triển công nghiệp của cả nước và từng địa phương.


Sau 5 năm thực hiện nghị định 134, sự phát triển nghề, làng nghề và cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn ở Quảng Bình đã khởi sắc đáng kể. Sự phát triển nghề, làng nghề tiểu thủ công nghiệp dựa trên sự phát triển đồng thời các loại hình kinh tế như HTX tiểu thủ công nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân...


Còn nhiều khó khăn


Tuy nhiên, việc phát triển, nhân cấy ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở Quảng Bình đã gặp không ít khó khăn như: nghề đào tạo chủ yếu là nghề mới, thời gian đào tạo ngắn vì vậy người lao động chỉ sản xuất được một số mặt hàng đơn giản, giá thành thấp nên thu nhập từ nghề chưa cao khiến người lao động chưa mặn mà với nghề mới được đào tạo, vì vậy các nghề này chưa tự nhân rộng được. Phần lớn các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn đều gặp khó khăn về nguồn vốn đầu tư, mở rộng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm còn nhỏ lẻ, hầu như các chủ cơ sở mới chỉ phát triển sản xuất kinh doanh theo hướng tự phát. Các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác khuyến công từ Trung ương đến địa phương chưa đầy đủ và cụ thể, chậm được triển khai phổ biến đến cơ sở, định mức hỗ trợ kinh phí khuyến công theo quy định của Nhà nước còn thấp nên chưa kích thích được người dân, doanh nghiệp đầu tư vốn vào phát triển công nghiệp. Việc đào tạo nghề về tiểu thủ công nghiệp đặc biệt là tại các huyện miền núi đang gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt, kinh phí dành cho khuyến công dành cho các dự án còn thấp hơn nhiều so với nhu cầu nên hiệu quả các hoạt động chưa cao.


Khuyến khích phát triển các mặt hàng mỹ nghệ chất lượng cao


Với mục tiêu từ nay đến năm 2020 sẽ khôi phục và khuyến khích phát triển các ngành nghề, làng nghề nghề truyền thống. Ưu tiên phát triển ngành nghề chế biến nông lâm thuỷ hải sản, mây tre, nón lá, thủ công mỹ nghệ, hang lưu niệm, thực phẩm, đồ uống, du nhập thêm các nghề mới… Quảng Bình đề ra kế hoạch giai đoạn 2011- 2015 sẽ tiếp tục phát triển mạnh các mặt hàng truyền thống về chế biến thuỷ hải sản tại các xã, phường ven biển; mở rộng và phát triển nghề chế biến thuỷ sản các địa phương ven sông Gianh, sông Nhật Lệ. Phát triển các cơ sở chế biến thức ăn gia súc, nuôi trồng thuỷ sản tại các huyện Quảng Trạch, Tuyên Hoá và thành phố Đồng Hới. Khuyến khích đầu tư mở rộng, phát triển các sản phẩm mới có chất lượng cao tại trung tâm các huyện, thành phố Đồng Hới như: Thiết bị đồ dùng dạy học, may mặc, dày da, sản xuất đồ cơ khí, điện, điện tử, vật liệu mới. Áp dụng khoa học công nghệ mới nhằm phát triển nghề nón lá, mây tre đan, chiếu cói, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng lưu niệm hiện có, khuyến khích phát triển các mặt hàng mỹ nghệ có chất lượng cao phục vụ và du lịch và xuất khẩu. Giai đoạn 2016 – 2020 sẽ đầu tư công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng, sản phẩm các mặt hàng truyền thống chế biến thuỷ hải sản, nông sản, thực phẩm tại các xã phường ven biển, dọc đường Hồ Chí Minh và đường 12A, phát triển các mặt hàng mây tre đan, nón lá, hàng thủ công mỹ nghệ đều khắp các địa phương trong tỉnh. Khuyến khích phát triển các mặt hàng mỹ nghệ có chất lượng cao, các mặt hàng thực phẩm ăn liền cao cấp phục vụ nhu cầu tiêu dung và xuất khẩu, như: Các loại bánh, đồ hộp, nước uống, kết hợp việc phát triển thương hiệu và đăng ký chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn Việt Nam và Quốc tế. Duy trì, khuyến khích phát các cơ sở sản xuất VLXD, chế biến gổ, thiệt bị, đồ dung dạy học, may mặc, giày da, sản xuất cơ khí, điện, điện tử, vật liệu mới hiện có. Đẩy mạnh công tác đào tạo nâng cao tay nghề, chú trọng công tác tuyên truyền, tư vấn sản xuất kinh doanh cho các cơ sở trên địa bàn toàn tỉnh. Chú trọng phát triển các ngành nghề dịch vụ xây dựng, vận tải, cơ khí, chế biến nguyên liệu cho công nghiệp các dịch vụ khác phục vụ đầu tư sản xuất công nghiệp ở các địa phương, các nhà máy thuỷ điện đầu nguồn sông Gianh, sông Long đại, sông Kiến Giang và các trung tâm kinh tế, công nghiệp khác của tỉnh.


Để hoàn thành mục tiêu trên, Quảng Bình đề ra 7 nhóm giải pháp thực hiện bao gồm: giải pháp Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội như: quy hoạch phát triển CN-TTCN, quy hoạch phát triển các cụm điểm TTCN&NNNT, đề án sản xuất hàng lưu niệm và tiêu dùng phục vụ du lịch cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Triển khai lập quy hoạch để hình thành và phát triển các vùng nguyên liệu, như vùng trồng dâu nuôi tằm, gổ nguyên liệu, trồng cây cao su, dược liệu, phân vùng khoanh nuôi bảo vệ các loại song mây, giang, tre nứa, lồ ô, lá nón… và vùng trồng mới nguyên liệu mây để cung cấp nguyên liệu ổn định cho các cơ sở sản xuất. Tăng cường công tác đào tạo công nhân kỹ thuật, đào tạo giáo viên thực hành, bồi dưởng kiến thức về kỹ thuật, quản lý cho các chủ cơ sở sản xuất, tổ chức tốt công tác đào tạo nghề cho người lao động với nhiều hình thức: xây dựng mạng lưới khuyến công từ tỉnh đến cơ sở. Hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ nhằm hỗ trợ các cơ sở sản xuất đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ thiết bị, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Tổ chức tập huấn đào tạo, du nhập nghề mới, hướng dẫn chuyển giao công nghệ, xây dựng các mô hình trình diễn kỹ thật sản xuất, làm tốt công tác tư vấn, hướng dẫn, hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất về pháp luật, lập dự án đầu tư, cung cấp thong tin về thị trường và tiêu thụ sản phẩm…Phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm truyền thống. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia các hội chợ triển lãm. Khuyến kích thành lập các doanh nghiệp đầu mối để cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm cho các cơ sở sản xuất, hộ gia đình và các làng nghề. Thực hiện tốt sự liên kết “bốn nhà” giữa nhà nước, nhà khoa học, người cung cấp nguyên liệu với các doanh nghiệp, từng bước áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý môi trường tiên tiến (ISO 9000; ISO 14000…) hỗ trợ các cơ sở sản xuất sử dụng Intenet, xây dựng thương hiệu, đăng ký mã vạch, mã vùng, không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi để hoà nhập kinh tế thế giới. Tưng cường thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường; ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; tổ chức quản lý nhằm đề cao trách nhiệm của các cấp đối với cơ sở sản xuất.
 

Thanh Thảo