Dọc đường Khuyến công
Đó là khẳng định của TS Matthias Duhn - Giám đốc điều hành Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam trong hội thảo: “Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế” mới diễn ra tại Hà Nội.

 

Tuy nhiên, một số ý kiến khác lại cho rằng, tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn những “vấn đề” và cần có giải pháp để khắc phục.


Việt Nam có thể trở thành một trung tâm của khu vực trong tương lai


Theo Cục Đầu tư nước ngoài (FIA), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 10 năm qua, Việt Nam đã chứng kiến những thay đổi mạnh mẽ có tính đột phá trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Dòng vốn đăng ký và thực hiện tăng liên tiếp từ năm 2001 và đạt mức cao nhất vào năm 2008 với số vốn đăng ký đạt 71,7 tỷ USD và vốn thực hiện đạt 11 tỷ USD. Năm 2009, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, mặc dù số vốn đăng ký có giảm đáng kể (xấp xỉ bằng 1/3 so với năm 2008), tuy nhiên số vốn thực hiện vẫn đạt 10 tỷ USD. 4 tháng đầu năm 2010, Việt Nam có 263 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 5,59 tỷ USD, tăng 58,5% so với cùng kỳ 2009 và số vốn giải ngân là 3,6 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ và được đánh giá là con số khá cao trong bối cảnh hiện nay.


Đặc biệt, sau khi gia nhập WTO và triển khai thực hiện Luật Đầu tư 2005, Việt Nam đã thu hút được những dự án quy mô lớn lên tới hàng tỷ USD như dự án Công ty TNHH Thép Vinashin Lion của nhà đầu tư Malaysia với tổng vốn đăng ký đầu tư 9,7 tỷ USD; Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formusa Hà Tĩnh của nhà đầu tư Đài Loan với tổng số vốn đầu tư 7,8 tỷ USD.


Cùng với việc thu hút các dự án mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả đã liên tục mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư. Tính chung giai đoạn 2001-2009, Việt Nam có khoảng 3.767 lượt dự án mở rộng quy mô tăng vốn với tổng vốn hơn 22,87 tỷ USD, tăng gấp 3,64 lần so với giai đoạn 1991-2000. Khảo sát thường niên của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản - Jetro cũng cho biết: Tại Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp FDI được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều đó thể hiện sự tin tưởng và an tâm của nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.


Với khẳng định “Việt Nam vẫn hấp dẫn”, TS Matthias Duhn lý giải: Sự ổn định về chính trị là một ưu điểm lớn của Việt Nam trong tương quan so sánh với các nước láng giềng như Thái Lan, Indonesia. Ngoài ra, với các yếu tố về dân số, thu nhập bình quân, tốc độ tăng trưởng bình quân 7 năm qua là 6,8%…, đặc biệt là vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam có thể trở thành một trung tâm của khu vực trong tương lai.


“Vấn đề” và giải pháp


Tuy nhiên, nếu nhìn nhận ở một khía cạnh khác, một số chuyên gia vẫn cho rằng tình hình thu hút đầu tư ở Việt Nam vẫn còn những “vấn đề” và rất cần có những giải pháp để khắc phục. Cụ thể, GS-TSKH Nguyễn Mại (Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài - VAFIE) cho rằng: Thực trạng phân bố FDI ở Việt Nam không đồng đều tại các địa phương trên cả nước, và thu hút đầu tư nước ngoài ở Việt Nam vẫn còn bị động và phụ thuộc nhiều vào ý đồ của nhà đầu tư. Để khắc phục thực trạng này, GS Nguyễn Mại cho rằng: Việt Nam cần có những tiếp cận mới về cơ cấu FDI để chuyển từ thế bị động theo ý đồ của nhà đầu tư sang thế chủ động trong việc lựa chọn các dự án đầu tư. Đồng thời, gắn kết các dự án đầu tư với quy hoạch phát triển kinh tế kỹ thuật.


FIA thì cho rằng: Nguồn vốn đầu tư nước ngoài thời gian qua có sự mất cân đối giữa các ngành, trong khi các lĩnh vực dịch vụ, bất động sản có xu hướng tăng lên thì các lĩnh vực quan trọng như công nghệ cao lại có xu hướng giảm. Nếu như năm 2000 FDI vào lĩnh vực dịch vụ chỉ chiếm 7% tổng vốn đăng ký thì đến cuối năm 2009, dịch vụ đã chiếm tới 77% tổng vốn đăng ký.


Mặt khác, FIA cũng cho rằng: Nhận thức về thu hút và quản lý các nguồn vốn FDI tại các địa phương còn thiếu đồng bộ, có khi nóng vội, thiên về lợi ích trước mắt mà chưa tính đến vấn đề chiến lược, một số địa phương còn chạy theo số lượng mà thiếu quan tâm đến chất lượng đầu tư… Trong đó, bài học về việc cấp phép ồ ạt cho các dự án sân golf, các dự án khai thác khoáng sản và trồng rừng cần được nhìn nhận và nghiêm túc rút kinh nghiệm.


Để khắc phục những “vấn đề” này, FIA đưa ra 7 giải pháp cơ bản về pháp luật chính sách, nhóm giải pháp quy hoạch, cải thiện cơ sở hạ tầng, nhân lực, quản lý nhà nước, xúc tiến đầu tư, các nhóm giải pháp khác.


Với nhóm giải pháp liên quan đến pháp luật, chính sách, FIA cho rằng: Cần tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán và bổ sung các nội dung còn thiếu; sửa đổi các quy định còn bất cập, liên quan đến các thủ tục đầu tư và đăng ký kinh doanh. Đồng thời, thường xuyên tiến hành rà soát các dự án đã cấp giấy chứng nhận đầu tư trên địa bàn để có hướng xử lý đối với từng loại dự án. Về cơ sở hạ tầng, cần tiến hành rà soát, điều chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, sử dụng hình thức hợp tác Nhà nước và tư nhân trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng (PPP). Về xúc tiến đầu tư, cần nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có sự hỗ trợ tích cực với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản…; chú trọng và đẩy nhanh tiến độ đàm phán các hiệp định đầu tư giữa Việt Nam với đối tác song phương và đa phương khác…


Ngoài ra, để thu hẹp khoảng cách chênh lệch lớn giữa số vốn đăng ký và số vốn thực hiện trong thu hút FDI tại Việt Nam, ông Đỗ Nhất Hoàng - Cục trưởng FIA cho biết: Thời gian tới, FIA sẽ có những chính sách mới, trong đó yêu cầu tiến độ triển khai các dự án phải rõ ràng và sẽ thu hồi giấy phép đầu tư với các dự án chậm triển khai mà không có lý do chính đáng. Mặt khác, ông Hoàng cũng cho biết, để hạn chế chạy theo số lượng, 5 năm tới, FIA sẽ thận trọng hơn trong việc kêu gọi đầu tư nước ngoài./.
 

Nguyễn Hòa, Báo VEN