Chiều ngày 06 tháng 01 năm 2011, tại Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng có cuộc đối thoại trực tuyến với nhân dân nhằm giải đáp sự quan tâm của người dân trong các lĩnh vực hoạt động của ngành Công Thương trong năm 2011 và các nhiệm vụ trọng tâm của năm 2012.

Tại cuộc đối thoại trực tuyến, Bộ Trưởng cho biết năm 2011 khép lại với những thành tích quan trọng của cả nước. Đóng góp vào thành tích đó, ngành Công Thương có nhiều nỗ lực, cố gắng từ cơ quan bộ, Sở Công Thương, doanh nghiệp, các hiệp hội và với sự giúp đỡ của nhân dân cả nước.

Về phát triển công nghiệp, dù có nhiều khó khăn, như chi phí đầu vào, chịu sức ép cạnh tranh của hàng nước ngoài, thị trường xuất khẩu, tín dụng khó khăn nhưng với các giải pháp đúng đắn của Chính phủ, nỗ lực của doanh nghiệp…, công nghiệp vẫn tăng trưởng, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 12,7%. Ngành Công nghiệp đã đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của nhân dân, không để thiếu hàng, sốt giá.

Xuất khẩu đạt 96,3 tỷ USD, tăng 33%. Trong bối cảnh kinh tế thế giới khó khăn thì đây là một cố gắng hết sức lớn, là kết quả của một loạt nhóm giải pháp của Chính phủ, thể hiện đúng đắn trong quyết sách. Tính bình quân đầu người, xuất khẩu vượt ngưỡng 1.000 USD, đứng thứ 5 ở ASEAN. Do đó, cán cân thương mại cải thiện rõ rệt. Với các giải pháp của Chính phủ, của Bộ Công Thương, một mặt đã đảm bảo nhập khẩu các máy móc, thiết bị, nguyên nhiên liệu cần thiết, tăng cường kiểm soát nhập siêu. Từ khi gia nhập WTO, nhập siêu của Việt Nam đã giảm từ 30% xuống còn dưới 10% kim ngạch xuất khẩu (năm 2011). Đây là một bức tranh sáng của cán cân thương mại.

Đảm bảo cân đối các mặt hàng thiết yếu cho thị trường nội địa, đặc biệt là điện, thực hiện tương đốt tốt sản xuất và cung ứng, cơ bản đã đáp ứng đủ điện cho nhu cầu của nhân dân, sản xuất và các sự kiện quan trọng của đất nước. Nhu cầu đối với các mặt hàng khác cũng được đáp ứng đủ, thị trường nội địa phát triển tương đối tốt, tăng trưởng hơn 24%.

Liên quan vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ Công Thương đã tham gia tích cực với các bộ, ngành địa phương thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế. Bộ Công Thương đã tham mưu cho lãnh đạo trong các chuyến đi nước ngoài trong việc ký kết các hiệp định thương mại, tăng cường tuyên truyền phổ biến về các hiệp định thương mại đã ký kết...; tích cực tham mưu cho Chính phủ đàm phán, tiến tới ký hết các hiệp định kinh tế.

Bên cạnh những thành công, Bộ Công Thương tự nhận thấy còn không ít hạn chế, bất cập thậm chí là khuyết điểm. Cơ cấu các lĩnh vực, ngành hàng chậm chuyển dịch, nặng về công nghiệp gia công, sử dụng nhiều lao động, khai khoáng. Còn công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, tận dụng được lợi thế của đất nước về vị trí địa lý, về nhân lực còn hạn chế. Công nghiệp hỗ trợ kém phát triển, phải nhập nhiều vật tư, linh kiện còn nhiều khiến nhập siêu. Xuất khẩu dù đạt tăng trưởng cao nhưng cơ cấu ngành hàng chuyển dịch còn chậm, còn dựa nhiều vào các mặt hàng từ khu vực nông nghiệp, chế biến, sử dụng nhiều lao động, khai khoáng... tỷ trọng hàng chế biến, có giá trị nội địa cao còn hạn chế, tỷ trọng khiêm tốn. Nếu không có biện pháp chuyển đổi, chuyển dịch cơ cấu thì tốc độ khó mà duy trì được, và mất lợi thế với một số mặt hàng.


Sau đây là nội dung các câu hỏi và trả lời trong cuộc đối thoại trực tuyến của Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng

BTV: Trong những ngày vừa qua, sau khi thông báo về cuộc đối thoại trực tuyến này, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ đã nhận được rất nhiều câu hỏi của người dân và doanh nghiệp gửi đến cho Bộ trưởng. Và sau đây xin đề nghị Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng trả lời những câu hỏi được chúng tôi nhóm lại theo các vấn đề mà người dân và doanh nghiệp quan tâm, trong khi Bộ trưởng trả lời, chúng tôi sẽ liên tục cập nhật các câu hỏi được khán giả, thính giả, độc giả gửi về.

Ông Nguyễn Trí Hoàng – Hạ Đình, Thanh Xuân, Hà Nội cùng nhiều độc giả gửi tới Bộ trưởng 2 câu hỏi như sau: Theo báo chí tôi được biết năm vừa qua, nhập siêu của Việt Nam khoảng hơn 9,5 tỷ USD, giảm gần 25% so với năm trước và chỉ bằng 9,9% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong khi mục tiêu đề ra là 16%. Đây là kết quả rất đáng mừng nhưng liệu có bền vững? và mục tiêu đến 2015 sẽ cân bằng cán cân thương mại có đạt được hay không, thưa Bộ trưởng?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Đây là một trong những vấn đề ngành Công Thương hết sức quan tâm và là nội dung cần sự chỉ đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả hơn của ngành Công Thương từ cơ quan bộ đến cơ sở. Nhìn tổng thể, Việt Nam nhiều năm qua cơ bản là nước nhập siêu phục vụ phát triển kinh tế trong khi nhiều chủng loại máy móc thiết bị chưa sản xuất được, nhập khẩu nhiều loại nguyên, nhiên vật liệu. Trong bối cảnh chúng ta tăng trưởng kinh tế phải đầu tư để có thêm năng lực sản xuất mới, đảm bảo nhu cầu sinh hoạt của người dân. Do vậy, nhập khẩu là không tránh khỏi. Về cơ bản, chúng ta tuy nhập siêu nhưng nhập siêu lành mạnh. Có nghĩa là, trong cơ cấu hàng nhập khẩu của chúng ta, tỷ trọng mặt hàng thiết yếu không thể không nhập như máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, và một số mặt hàng sinh hoạt thiết yếu cho người dân chiếm trên 80%. Hàng tiêu dùng và không thiết yếu chỉ chiếm 7%.

Thứ 2, tình hình nhập siêu không thể khắc phục trong ngày một ngày hai vì chúng ta nhập khẩu chủ yếu máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu. Chừng nào chưa có nền công nghiệp cơ khí chế tạo đủ mạnh, còn thiếu ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển theo đúng trọng tâm trọng điểm, một bộ phận còn chưa thay đổi được thói quen tiêu dùng, chưa dành vị trí thỏa đáng cho hàng trong nước, vẫn hướng về hàng nước ngoài thì chừng đó còn phải nhập khẩu.

Nhân diễn đàn này, tôi xin thông báo, việc nhập siêu của chúng ta sẽ dần từng bước được khắc phục được nhưng không phải chỉ ngành Công Thương làm được, mà cần sự phối hợp giúp đỡ, đồng tình, đồng hành của toàn bộ xã hội, nhân dân, các doanh nghiệp thì mới có thể thực hiện được công việc này.

Về nhập siêu, năm 2011, chúng ta đã đạt một số kết quả bước đầu như tôi đã trình bày ở phần trên. Đây là bước tiến so với năm 2007 và thời kỳ trước đây. Tuy nhiên, mục tiêu năm 2015 có thể cân bằng cán cân thương mại hay không là câu hỏi không hề đơn giản, bởi chúng ta vẫn trong giai đoạn tăng cường đầu tư để tăng cường năng lực sản xuất, qua đó, vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu, máy móc... trong nước chưa sản xuất được hay sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu.

Theo tính toán, đến năm 2019-2020, chúng ta mới có điều kiện cân bằng xuất nhập khẩu. Muốn thực hiện được điều này cần nỗ lực hết sức lớn của cả nước, các doanh nghiệp. Tôi xin nhắc lại trong chỉ tiêu kế hoạch 2011-2015 cũng như chiến lược 2011-2020 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng 11, chúng ta đặt ra mục tiêu năm 2020 phấn đấu cân bằng cán cân thương mại.

Chúng tôi sẽ phấn đấu để có thể hoàn thành mục tiêu sớm hơn thời hạn này.

Câu hỏi của Hội Trí thức KH&CN Trẻ Việt Nam: 1. Theo các cam kết gia nhập WTO thì thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng sẽ được giảm rất nhiều. Vậy để hạn chế nhập khẩu đối với những mặt hàng trong nước sản xuất được hoặc nhà nước muốn hỗ trợ phát triển sản xuất trong nước thì chính sách về hàng rào phi thuế quan đã và đang làm được đến đâu và sẽ tiếp tục được hoàn thiện như thế nào?

2. Để sản phẩm công nghiệp Việt Nam có thể cạnh tranh được ngay trên chính thị trường nội địa, vấn đề không chỉ là năng suất và giá thành mà phải có thiết kế, sáng tạo. Theo Bộ trưởng, vấn đề này cần được hiểu thế nào và phải làm gì để thúc đẩy?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO và các hiệp định thương mại tự do đã ký kết, chúng ta phải giảm thuế suất theo lộ trình, nhưng các lộ trình này rất khác nhau. Có hiệp định thì thời gian giảm thuế ngắn, nhưng có hiệp định thời gian này dài hơn.

Trong thời gian này chúng ta căn cứ vào khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước, nếu khả năng cạnh tranh còn yếu thì tìm biện pháp kéo dài lộ trình, với những hàng hóa có lợi thế, lộ trình đó ngắn hơn. Với tinh thần đó, chúng ta giảm thuế ngay đối với một số hàng, một số khác thì đàm phán theo hướng các đối tác chấp nhận kéo dài lộ trình vì nền kinh tế Việt Nam đang phát triển, trình độ chưa cao. Ví dụ, trong hiệp định thương mại với Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ mà chúng ta cùng ký với các nước ASEAN, chúng ta được hưởng lộ trình dài hơn 6 nước gia nhập đầu tiên của ASEAN, chậm hơn 5 năm, thậm chí là từ 10 đến 15 năm với một số mặt hàng.

Chúng tôi muốn khẳng định rằng khi đàm phán, các bộ, ngành và Bộ Công Thương đã nghiên cứu rất kỹ, tham khảo ý kiến của doanh nghiệp qua VCCI và các hiệp hội, ý kiến của xã hội, để quyết định mặt hàng nào lộ trình nhanh, chậm. Ví dụ, khi gia nhập WTO, 4 mặt hàng là đường ăn, muối ăn, trứng gia cầm và nguyên liệu thuốc là chúng ta đã đấu tranh duy trì được bảo hộ cho hàng trong nước qua việc cấp hạn ngạch nhập khẩu và thuế. Vì vậy, đảm bảo quyền lợi của người nông dân, đảm bảo khả năng cạnh tranh, có đủ thời gian để nâng năng xuất, chất lượng mặt hàng.

Về các biện pháp kỹ thuật, có thể nói là một sự quan tâm của người dân trong nhiệm kỳ trước và đến nay, tiếp tục là một nột dung được Chính phủ quan tâm. Bộ Y tế đã ban hành quy định về kiểm dịch động thực vật nhập khẩu vào VN. Bộ Công Thương đã nghiên cứu, ban hành quy định thuộc lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ như dệt may. Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ ban hành quy định liên quan đến các sản phẩm CNTT.

Chúng ta sẽ làm tốt hơn vì đây là biện pháp được phép, miễn là không mang tính hàng chính, phân biệt đối xử hàng hóa trong nước và nước ngoài. Khi chúng ta ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật còn tính đến không chỉ áp dụng với hàng nước ngoài nhập vào Việt Nam mà cả với hàng Việt Nam. Nếu Việt Nam không thực hiện được mà yêu cầu hàng nước ngoài thực hiện thì không phù hợp. Do đó, quá trình này cần nghiên cứu rất cẩn trọng, có cơ sở thực tế, nhu cầu bảo về người tiêu dùng, v.v...Tôi khẳng định Chính phủ đang chỉ đạo làm tích cực, tốt hơn.

Về cầu hỏi thứ hai, đây cũng là một nội dung rất đáng quan tâm để hàng hóa không chỉ tiêu thụ nhờ giá rẻ mà còn nhờ mẫu mã, hình thức. Trong nước, hiện có nhiều mặt hàng có chất lượng thậm chí cao hơn hàng hóa nước ngoài, giá cũng rẻ hơn, nhưng tiêu thụ vẫn chậm. Tôi cho rằng một trong những nguyên nhân là thiết kế, mẫu mã chưa đa dạng, chưa thay đổi kịp phù hợp thị hiếu. Do đó, một giải pháp mà ngành đặt ra trong năm 2012, đặc biệt là hàng tiêu dùng, yêu cầu về mẫu mã phù hợp thị hiếu cần hết sức quan tâm. Và đây cũng là một nội dung mang tính chiến lược trong sản xuất các mặt hàng thời gian tới.

Lê Thu Hạnh – TX Tam Điêp, tỉnh Ninh Bình: Bộ Công Thương vừa ban hành thông tư qui định thuế nhập khẩu 0% đối với mặt hàng lá và cọng thuốc lá, theo tôi, qui định này vô hình chung đã khuyến khích phát triển sản xuất thuốc lá trong nước, trong khi chúng ta lại đang đẩy mạnh vận động không thuốc lá. Quan điểm của Bộ trưởng về vấn đề này như thế nào?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Một câu hỏi rất đáng quan tâm bởi hiện nay Quốc hội đang xem xét, tới đây sẽ thông qua Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá.

Để trả lời câu hỏi này, cần điểm lại một chút chính sách thương mại và chính sách với hàng nhập khẩu mà tôi đã trình bày.

Theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, mặt hàng nguyên liệu thuốc lá là 1 trong 4 nhóm mặt hàng chúng ta đã đấu tranh để duy trì thuế suất thuế nhập khẩu ở mức cao và dùng hạn ngạch để phân bổ việc nhập khẩu vào Việt Nam. Đối với hàng hóa mà chúng ta còn thiếu, nguyên liệu thuốc lá là 1 trong 4 hàng hóa đó. Hiện nay, trong nước, chúng ta mới chỉ đáp ứng được khoảng 50% cho nhu cầu cho sản xuất thuốc lá.

Xuất khẩu thuốc lá của chúng ta có tỷ lệ không nhiều. Sản xuất ra chủ yếu tiêu thụ trong nước. Hàng năm chúng ta vẫn phải nhập khẩu từ 30.000-40.000 tấn nguyên liệu thuốc lá lá. Đây là nhu cầu rất lớn, chúng ta không thể không nhập khẩu vì vẫn có thực trạng một bộ phận không nhỏ người tiêu dùng sử dụng thuốc lá. Không phải “ngày một ngày hai” chúng ta có thể bỏ thói quen này dù ai cũng biết tác hại. Đây là thực tế của cuộc sống.

Thứ 2, chúng ta có một loạt nhà máy thuốc lá đã xây dựng trong những năm qua, tạo việc làm và thu nhập cho hàng nghìn người lao động. Không thể một lúc chúng ta có thể dẹp bỏ. Vì thế, chúng ta phải duy trì nhưng duy trì ở mức hạn chế nhất.

Chủ trương của Chính phủ là không tăng thêm, đầu tư thêm cho nhà máy thuốc lá để tăng khả năng sản xuất.

Thứ 2, nhà nước cấm mọi hình thức quảng cáo thuốc lá.

Thứ 3, không nhập khẩu thuốc lá điếu, mà chỉ cho phép nhập khẩu một lượng nguyên liệu thuốc lá cần thiết cho sản xuất trong nước.

Theo cam kết, thuế suất đối với nguyên liệu thuốc lá không phải là 0% như bạn đọc hỏi mà đối với thuốc lá lá là 30%.

Trong số 30-40 ngàn tấn nguyên liệu thuốc lá lá chúng ta nhập hàng năm theo hạn ngạch, đối với riêng 2 nước bạn Lào, Campuchia, do quan hệ hữu nghị đặc biệt, và do thỏa thuận 2 bên, chúng ta có dành cho 2 nước bạn hạn ngạch rất ít để xuất khẩu sang Việt Nam với thuế suất ưu đãi. Mỗi nước chỉ xuất khoảng 3.000 tấn trong tổng số 30 – 40 ngàn tấn mà chúng ta phải nhập khẩu.

Có thể nói rằng, việc chúng ta duy trì hạn ngạch nhập thuốc lá với thuế suất cao là biện pháp đảm bảo việc duy trì khả năng sản xuất trong nước và hạn chế việc tiêu dùng trong nước, tiến tới sau khi Luật phòng chống tác hại của thuốc lá được Quốc hội thông qua, thì sẽ có nhiều biện pháp vận động, tuyên truyền trong bộ phận người tiêu dùng dần từ bỏ thói quen hút thuốc lá. Và khi đó, theo tôi, dù muốn hay không, ngành thuốc lá cũng phải đi theo con đường đó, không thể tăng trưởng sản xuất, duy trì mà còn phải thu hẹp, thu gọn lại cơ sở sản xuất.

Tại thành phố Hồ Chí Minh, ông Hồ Ngọc Thắng là một doanh nhân gửi thư đến Cổng TTĐT Chính phủ nêu vấn đề như sau:

Bước vào năm 2012, kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn, “sức khỏe” của các doanh nghiệp lại đang yếu đi do thiếu vốn, một số thị trường xuất khẩu chủ chốt của Việt Nam cũng khó khăn do khủng hoảng nợ công. Bộ Công Thương sẽ có những giải pháp gì để đạt mục tiêu xuất khẩu đề ra cho năm 2012? (tăng 14,6% so với năm 2011). Với câu hỏi này đề nghị Bộ trưởng nêu những giải pháp mới, mang tính đột phá?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Mục tiêu xuất khẩu năm là 13%, đạt khoảng 108 tỷ USD. Để đạt mục tiêu này, Bộ tiếp tục các nhóm giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu theo Nghị quyết 11 năm 2011 của Chính phủ, đồng thời đưa ra các giải pháp đặc thù.

Thứ nhất, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đề xuất các giải pháp về vốn, tiếp cận nguồn kinh phí cho vay, giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp.

Thứ hai, đẩy mạnh xúc tiến thương mại trong chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, tập trung và các mặt hàng có lợi thế, những mặt hàng mới có khả năng phát triển. Đồng thời, nghiên cứu, mở rộng thị trường xuất khẩu, những thị trường tiềm năng mà lâu nay chúng ta chưa quan tâm thực sự như Mỹ La tinh, Trung Đông, Châu Phi.

Thứ ba, tăng cường thông tin tuyền truyền, giải thích những lợi thế mà các hiệp định thương mại tự do mang lại để hàng hóa VN có thể khẳng định vị thế tại các thị trường này trong thời gian ngắn. Đồng thời, cảnh báo sớm các biện pháp hạn chế xuất khẩu của các nước, kịp thời ứng phó, để doanh nghiệp kịp thời khắc phục.

Độc giả Đoàn Trung Văn, An Đông, Thừa Thiên Huế: Việc giá điện tăng giá 5% vừa qua là chưa sòng phẳng và vào thời điểm nhạy cảm. Xin Bộ trưởng cho biết ý kiến về vấn đề này?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Đây là một câu hỏi luôn được quan tâm. Tôi sẽ cố gắng nói ngắn gọn vì Bộ đã có một số dịp trả lời cử tri cả nước về vấn đề này.

Thứ nhất, chúng ta luôn gặp căng thẳng cung cấp điện, có thời điểm căng thẳng quanh năm, có năm căng thưởng vào mùa khô, có năm thì vào cuối năm. Tốc độ tăng trưởng nhu cầu sử dụng điện rất cao, có lẽ là rất ít nền kinh tế nào trên thế giới có nhu cầu tăng cao như VN, bình quân 15%/năm trong 10 năm qua. Và hiệu suất sử dụng điện năng thấp, chúng ta phải đầu tư 2-2,5 đơn vị điện để tăng trưởng GDP 1- 1,5%. Giá điện thì luôn được duy trì ở mức thấp, thậm chí thấp hơn giá thành, vì ngành điện phải thực hiện mục tiêu an sinh xã hội, bên cạnh mục tiêu cung cấp điện cho sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân. Nếu chúng ta nâng giá điện cao hơn giá thành, chắc chắn sẽ ảnh hưởng các chỉ tiêu kinh tế và đời sống.

Do giá rẻ, nên không khuyến khích được tiết kiệm điện, ngành điện khó thu hút đầu tư, không khuyến khích đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp.

Tính đến tất cả thực tế đó, điều nhất quán trong chủ trương của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ là ngành điện phải hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, điều này đỏi hỏi có lộ trình, tăng giá điện phải tính toán tác động đến kinh tế, đời sống. Lộ trình ngắn quá thì nền kinh tế không chịu đựng được.

Do đó, năm 2011, Chính phủ đã nhất trí về chủ trương ngành điện được điều chỉnh giá điện theo Quyết định 24 của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, phải cân nhắc kỹ về mức tăng, về thời điểm, về tác động,v.v... Trước khi tăng giá điện, liên Bộ Tài chính – Công Thương đã tính toán và báo cáo Chính phủ có thể tăng trên 10%. Tuy nhiên, việc điều chỉnh như vậy chắc chắn sẽ tác động đến lạm phát, ảnh hưởng đời sống nhân dân, nên ngành điện đã xin ý kiến của Bộ, của Chính phủ. Mức tăng 5% là chỉ tính biến động chi phí trực tiếp đầu vào như xăng dầu, nhân công... chưa tính đến các khoản lỗ do kinh doanh điện của các năm trước. Ngành điện đã chấp hành nghiêm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đồng thời có trách nhiệm với đời sống người dân. Lần điều chỉnh này, người nghèo, người dùng từ dưới 100kWh giờ không ảnh hưởng, tức là đại bộ phận người dân, người làm công ăn lương không bị ảnh hưởng.

Về thời điểm tăng giá, như tôi đã nói, nếu chúng ta tiếp tục kéo dài lộ trình điều chỉnh giá điện thì sẽ về lâu dài, cung ứng điện sẽ càng khó khăn, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân.

Ông Trần Tuấn Khải – Quận Tây Hồ, Hà Nội: Gần đây, Bộ trưởng có trả lời báo chí là khi xét tăng giá điện, Bộ không để ý đến phần lương của ngành điện vì cho rằng cái đó thuộc trách nhiệm của Bộ Lao Động – Thương binh và Xã hội. Câu hỏi đặt ra là Bộ có thiếu chủ động không ? Nếu Bộ thấy bất hợp lý thì Bộ phải chủ động đề xuất, kiến nghị chứ sao để lỗ to mà lương cao như thế?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Thời điểm ngành điện quyết định điều chỉnh 5% giá điện theo tôi là tương đối hợp lý bởi sau một thời gian chỉ số CPI tăng chậm lại, khả năng nhìn thấy có thể thực hiện được chỉ tiêu khống chế lạm phát ở mức 18%.

Thứ 2, còn cách tương đối xa thời điểm Tết nguyên đán Nhâm Thìn.

Thứ 3, tỷ lệ điều chỉnh thấp.

Nói về chuyện lương của ngành Điện, tôi cũng đã có dịp giải trình, báo cáo Quốc hội, cử tri cả nước khi tham gia trả lời chất vấn cùng Bộ trưởng Vương Đình Huệ. Tôi xin nói rằng, Bộ Công Thương chưa bao giờ phát biểu rằng Bộ không để ý tới lương của ngành điện.

Mà tôi nói rằng, về các chỉ tiêu liên quan đến lương, Bộ LĐTBXH được Chính phủ giao chức năng là cơ quan đầu mối về vấn đề này. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, Bộ Công Thương chỉ tham gia, không quyết định và cũng không quy định về lương cho ngành điện.

Bộ LĐTBXH theo quy định là cơ quan chủ trì việc xem xét và quyết định đơn giá tiền lương cũng như theo đó là quỹ tiền lương cho công ty mẹ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Căn cứ phê duyệt là chỉ tiêu sản xuất và kinh doanh điện. Ví dụ, năm 2010, kế hoạch giao giao cho ngành điện là hơn 90 tỷ kWh. Bộ LĐTBXH đưa ra đơn giá tiền lương được tính trên 1000 kWh là 5.434 đồng, nhân lên với hơn 90 tỷ kWh sẽ ra đơn giá tiền lương và quỹ tiền lương cho công ty mẹ của Tập đoàn. Còn lại, các công ty thành viên, cũng theo quy định, đều là doanh nghiệp nhà nước, do Hội đồng thành viên tập đoàn xem xét và quyết định có tham khảo ý kiến của Bộ LĐTBXH. Như vậy, có nghĩa là, câu chuyện liên quan tới tiền lương của ngành điện, với tư cách là doanh nghiệp nhà nước do các cơ quan quản lý nhà nước mà chủ trì là Bộ LĐTBXH kiểm tra và quyết định.

Thứ 2, Bộ Công Thương có trách nhiệm tham gia khi xem xét đăng ký kế hoạch của ngành điện, trong đó có chuyện tiền lương khi phối hợp với Bộ LĐTBXH, nhưng tiếng nói quyết định và chủ trì là Bộ LĐTBXH.

Vừa qua theo phản ánh, có sự việc lương cao-thấp ở ngành điện, Bộ trưởng Bộ LĐTBXH đã quyết định thành lập đoàn kiểm tra. Theo tôi, qua kết quả kiểm tra sẽ thấy việc thực hiện của ngành điện như thế nào trong vấn đề tiền lương.

Tôi muốn nói thêm về câu chuyện tại sao lỗ vẫn được hưởng lương và lương tương đối cao theo dư luận phản ánh, ngành điện vừa thực hiện kinh doanh, vừa thực hiện nhiệm vụ chính trị do Chính phủ giao. Lỗ vừa qua của ngành điện là lỗ kinh doanh điện, đây là lỗ chính sách.

Nếu thực hiện đúng theo các quy định đối với doanh nghiệp sản xuất, ngành điện được phép về nguyên tắc bán sản phẩm của mình phải cao hơn giá thành thì không có câu chuyện lỗ. Nhưng tôi xin khẳng định rằng, đây là lỗ chính sách và lỗ này không liên quan đến quản trị doanh nghiệp của Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Nếu họ thực hiện đúng và thực hiện đúng cơ chế giá thị trường thì không có câu chuyện lỗ như vừa rồi. Về vấn đề tiền lương của ngành điện, chúng tôi luôn sẵn sàng tham gia góp ý kiến với Bộ LĐTBXH chứ không phải là đứng ngoài cuộc…

Sinh viên từ Đại học Quốc gia Hà Nội: Cháu thấy chú ít có ý kiến, không có nhiều tuyên bố... về những vấn đề của ngành mình?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Tôi đánh giá cao câu hỏi thẳng thắn và mang tính thời sự này. Nhiều lãnh đạo các đơn vị thường xuyên có phát biểu. Tôi không phải là không phát biểu, nhưng chủ trương của chúng tôi là lắng nghe và nếu có vấn đề bức xúc thì trân trọng lắng nghe, có biện pháp giải quyết kịp thời. Còn nếu bức xúc chưa đúng thì chọn thời điểm phù hợp để nói lại, để người dân thấy ngành trân trọng, tiếp thu ý kiến của người dân. Theo tôi, đó là cách tiếp cận hợp lý.

Tôi cho rằng không phải là không có khả năng nói, mà tôi tập trung hơn vào thực hiện, thực hiện chỉ đạo của lãnh đạo, tiếp thu ý kiến của nhân dân, tháo gỡ các vấn đề đặt ra.

Nguyễn Xuân Thùy – Thanh Hóa: Qua đợt kiểm tra 4 doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu, Bộ Tài chính có kết luận: Nếu không có khoản chênh lệch tỉ giá và khoản chi phí vượt định mức thì kinh doanh xăng dầu có lãi. Một trong những nguyên nhân khiến chi phí vượt định mức là do các doanh nghiệp trả thù lao đại lý quá cao gây nên lỗ kinh doanh xăng dầu. Xin Bộ trưởng trả lời rõ vấn đề này.

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Cũng tương tự ngành điện, thời gian vừa qua có nhiều ý kiến từ nhân dân, người tiêu dùng xung quanh việc kinh doanh của các doanh nghiệp đầu mối về xăng dầu trong đó có Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex).

Trước hết, tôi xin tiếp thu ý kiến mang tính chất phê bình của nhân dân đối với hoạt động quản lý nhà nước của Bộ Công Thương trong lĩnh vực xăng dầu.

Nhà nước giao cho ngành Công Thương nhiệm vụ đảm bảo trong bất kỳ tình huống nào đủ xăng dầu, đảm bảo xăng dầu cho sản xuất, nhân dân bằng bất cứ mọi giá.

Về chủ quan chúng tôi thấy rằng, trong những năm qua mặc dù có nhiều khó khăn, nhưng về cơ bản đất nước chúng ta đã được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu thiết yếu về xăng dầu kể cả cho sản xuất và cho đời sống nhân dân.

Chưa có lúc nào chúng ta để xảy ra tình trạng thiếu hàng, thiếu nguồn cung cấp, mà nếu có chỉ là cục bộ ở một vài điểm trong thời gian ngắn.

Thứ 2, về kinh doanh xăng dầu, kết quả kiểm toán tình hình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty xăng dầu Việt Nam trong những năm qua cũng như một số đầu mối về kinh doanh xăng dầu, tôi cho rằng đã phản ánh hết sức khách quan và kết quả kiểm toán độc lập này đã được Kiểm toán Việt Nam kiểm tra lại.

Qua kiểm toán từ năm 2008 đến 2010, năm 2008, ngành xăng dầu lỗ về kinh doanh xăng dầu là hơn 10.000 tỷ đồng và được nhà nước cấp bù lỗ.

Năm 2009, kinh doanh xăng dầu có lãi một chút, khoảng 200 tỷ đồng. Bước sang năm 2010, tiếp tục lỗ. Năm 2011, con số chưa được cập nhật, nhưng khả năng lỗ trên 2.000 tỷ đồng.

Tổng thể mà nói, trong 4 năm, kinh doanh xăng dầu của Tổng công ty xăng dầu Việt Nam trừ năm 2009, còn lại là lỗ. Sở dĩ, trong báo báo cáo tài chính, sau đó được Tổng công ty xăng dầu công bố khi chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng, có thông tin có lãi, bởi vì Tổng công ty xăng dầu Việt Nam trong quyết định phê duyệt về giấy phép kinh doanh do UBND Hà Nội cấp thì ngoài lĩnh vực xăng dầu, được kinh doanh 5 lĩnh vực nữa là vận tải, xăng dầu, ngân hàng, bảo hiểm và một số lĩnh vực khác. Những lĩnh vực này là lĩnh vực có lãi và khi Tổng công ty công bố, cộng lãi này bù lỗ xăng dầu, ra lãi tổng thể của Tổng công ty. Như vậy không có nghĩa xăng dầu lãi mà báo lỗ. Mà rõ ràng lỗ thật, nhưng lãi của tổng công ty là do các hoạt động khác bù lại và do Nhà nước cấp bù lỗ năm 2008 về xăng dầu.

Thứ 2, ngành xăng đầu nói chung là thực hiện đúng yêu cầu và quy định của nhà nước.

Riêng về chi phí, đối với quy định về chi phí có liên quan tới tiêu thụ 1 tấn sản phẩm xăng dầu, theo quy định của nhà nước Bộ Tài chính là cơ quan ban hành, có phối hợp với Bộ Công Thương nhưng việc quyết định là Bộ Tài chính. Mức chi phí định mức xăng dầu 600 đồng/lít xăng dầu là mức được Bộ Tài chính quyết định, nhưng mức này được ban hành cũng đã lâu rồi, hiện nay, các Bộ Tài chính cũng thấy rằng cần xem xét sửa đổi quy định này vì không phù hợp với yêu cầu thực tế do chi phí đầu vào tăng rất cao. 600 đồng/lít xăng dầu không đảm bảo cho các đại lý có thể tiêu thụ sản phẩm và đảm bảo duy trì sản xuất kinh doanh.

Nhưng do bối cảnh thực tế, đến giờ này, mặc dù đã thừa nhận chi phí này chưa hợp lý nhưng chúng ta cũng chưa có quy định mới. Vì vậy, Tổng công ty xăng dầu Việt Nam trong kinh doanh của mình, giữa một bên là nhiệm vụ chính trị không được để đứt nguồn hàng cung cấp cho sản xuất và đời sống nhân dân và một bên là duy trì hoạt động của các đại lý, cửa hàng xăng dầu trong phạm vi hệ thống của mình nên Tổng Công ty buộc phải chi vượt lên mức 600 đồng. Mức vượt này không được nhà nước tính bù lỗ, mà Tổng công ty phải chịu lỗ này, hay nói cách khác không được hạch toán vào giá xăng dầu cho người dân.

Tôi xin nói một thực tế, năm 2010, tình hình kinh doanh xăng dầu khó khăn, giá thế giới tăng cao, nhưng do thực hiện các yêu cầu của Chính phủ về đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, chống lạm phát, nên ngành xăng dầu mà chủ lực là Tổng công ty xăng dầu Việt Nam không được phép điều chỉnh giá xăng dầu và duy trì ở mức thấp, trong khi đó, một số doanh nghiệp đầu mối khác về kinh doanh xăng dầu, vì quy mô kinh doanh nhỏ, nên đại lý của các công ty xăng dầu này đã đóng cửa, bán hạn chế thậm chí đóng cửa, dẫn tới tình hình khan hiếm ở một số địa bàn như Long An, Tây Nguyên.

Chúng tôi đã đi kiểm tra và yêu cầu ngay Tổng công ty xăng dầu Việt Nam phải bằng mọi cách đưa xăng dầu đến bù vào số thiếu hụt này. Do đó, họ tiếp tục phải chịu lỗ cao hơn. Thứ 2, cũng phải có hình thức duy trì đại lý của mình, nếu không đứt nguồn cung ứng thì không hoàn thành nhiệm vụ chính trị mà Chính phủ đặt ra.

Thứ 3, về cơ chế điều hành xăng dầu từ 2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định 84 về cơ chế điều hành xăng dầu. Tôi cho rằng, chúng ta đã thực hiện tương đối tốt ở những tháng cuối năm 2009, đầu 2010, tuy nhiên sau đó do biến động thị trường khó khăn nên chúng ta lại chưa thực hiện triệt để Nghị định 84.

Vì vậy dẫn đến chuyện chệch choạc và có phản ánh của dư luận. Trong mọi thời điểm, điều hành xăng dầu là điều hành của Chính phủ và có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tài chính và Bộ Công Thương. Có thể ý kiến nội bộ khác nhau nhưng khi ban hành và trình Chính phủ thì ý kiến đó là thống nhất, không có chuyện khác nhau giữa điều hành của 2 bên và tham mưu của 2 bên với Chính phủ. Nhân dịp này tôi xin làm rõ thêm tình hình ngành xăng dầu nói chung trong đó có Tổng công ty xăng dầu nói riêng. Rất trân trọng ý kiến của nhân dân, quý vị khán thính giả. Tuy nhiên, rất mong người dân lưu ý, xem xét thông tin được cơ quan nhà nước cung cấp một cách chính thống và có sự chia sẻ với những khó khăn của ngành xăng dầu, hiện có tới 12 đầu mối, trong đó Tổng công ty xăng dầu cũng chỉ là 1 trong những đầu mối đó. Tôi xin khẳng định lại tất cả các báo cáo tài chính đã được kiểm toán cụ thể.

Ông Trần Văn Lập - Phường Khuê Trung, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng: Vậy trách nhiệm của Bộ Công Thương đến đâu và khi nào Bộ Công Thương sẽ ban hành lại khung thù lao đại lý cũng như định mức hao hụt xăng dầu theo từng chủng loại, tránh tình trạng không rõ ràng như hiện nay?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Thù lao đại lý được hiểu là một bộ phận cấu thành chi phí kinh doanh. Theo Nghị định 84, chi phí kinh doanh định mức, lợi nhuận định mức, quỹ bình ổn giá theo quy định của Bộ Tài chính. Bộ Công Thương chỉ có ý kiến, chứ không quyết định. Việc sửa đổi là thuộc thẩm quyền của Bộ Tài chính. Và chúng tôi rất mong các định mức sẽ được sửa đổi phù hợp thực tế.

Về định mức hao hụt xăng dầu, trước đây mỗi ngành đều ban hành định mức cho ngành mình. Trước đây, Bộ Vật tư lúc đó cũng ban hành định mức hao hụt xăng dầu và năm 1984 là năm cuối cùng ban hành định mức, đến nay đã hơn 26 năm. Sau đó, chúng ta thấy rằng quy chế đó không phù hợp nên để các doanh nghiệp tự quy định định mức hao hụt xăng dầu, vì nó phản ánh vào kết quả sản xuất kinh doanh. Do đó, Bộ Công Thương và trước đây là Bộ Thương mại không ban hành định mức hao hụt xăng dầu và đây chính là điều khiến các doanh nghiệp phải có biện pháp tăng cường quản trị, chống thất thoát. Và nếu hao hụt xăng dầu vượt định mức thì cũng không được các cơ quan chức năng cho phép hạch toán vào các khoản lỗ.

BTV: Xin chuyển Bộ trưởng một câu hỏi của bạn đọc không nêu rõ tên: Đối với quỹ bình ổn xăng dầu người dân nghi ngờ nếu để quỹ tại doanh nghiệp thì doanh nghiệp có lợi, nhưng về phía các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu lại kêu kinh doanh xăng dầu bị lỗ nhưng vẫn phải trích quỹ bình ổn khiến họ khó khăn hơn. Theo Bộ trưởng làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn này?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Xung quanh việc thành lập và vận hành quỹ bình ổn xăng dầu có nhiều ý kiến của nhân dân phản ánh những mặt tồn tại của hình thức này.

Tôi xin nói rằng Quỹ bình ổn xăng dầu được thực hiện theo đúng Nghị định 84 của Chính phủ. Quỹ có tác dụng khi thị trường có biến động, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu được trích một tỷ lệ nhất định trong quỹ này để đảm bảo không có biến động quá lớn về giá xăng dầu, dẫn đến ảnh hưởng tới sản xuất và đời sống của nhân dân.

Thời gian qua, tuy mới vận hành nhưng bước đầu, theo báo cáo của Bộ Tài chính, cùng với Bộ Công Thương trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội, gần đây cũng được Bộ Tài chính trả lời trước công luận, Quỹ bình ổn xăng dầu đã được thành lập và vận hành theo đúng các quy định của pháp luật (Nghị định 84). Thứ 2, bước đầu đã có tác dụng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng phát sinh những vấn đề đòi hỏi các cơ quan có liên quan trong đó có Bộ Công Thương, Bộ Tài chính xem xét, tham mưu cho Chính phủ tiếp tục vận hành quỹ này như thế nào, để lại doanh nghiệp hay tập nhà nước quản lý tập trung và việc sử dụng nó có đúng mục đích không, có phải vì lợi ích của người tiêu dùng hay lợi ích của doanh nghiệp. Tất cả những việc đó đang được Bộ Tài chính cùng Bộ Công Thương phối hợp nghiên cứu và sớm trình Chính phủ trong tinh thần đạo của Chính phủ là rà soát lại Nghị định 84, không phải chỉ có Quỹ bình ổn xăng dầu mà còn có vấn đề thời điềm điều chỉnh giá xăng dầu, mức độ điều chỉnh như thế nào, trách nhiệm, nghĩa vụ của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đối với nhân dân, đất nước như thế nào.

Nhân đây, tôi xin quay lại chuyện bao giờ vận hành Nghị định 84. Xin khẳng định phải vận hành đúng Nghị định 84 và vận hành ngay, chỉ có điều vì một số nội dung đang được Chính phủ yêu cầu xem xét, và có thể trình Chính phủ để sửa đổi bổ sung cần thiết ví dụ như thời điểm, tỷ lệ điều chỉnh, chúng ta phải có từng bước. Nhưng thực hiện Nghị định 84 là thực hiện nhất quán theo chỉ đạo của Chính phủ.

 

Trung tâm Tin học