Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cũng nhấn mạnh những vấn đề trọng tâm và cho rằng, việc thực hiện thắng lợi kế hoạch năm 2011 có ý nghĩa quan trọng, tạo tiền đề thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011 - 2015), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 2020).
Kết thúc kế hoạch 5 năm 2005-2010, thưa Bộ trưởng, dấu ấn nào đáng nhớ nhất trong giai đoạn này?
- Giai đoạn 2006-2010 cho thấy sự bất ổn của kinh tế thế giới sau thời gian tăng trưởng mạnh nhất kể từ đầu năm 1970. Cuối 2009 và năm 2010, suy thoái có dấu hiệu chững lại ở một số nước, nhưng diễn biến vẫn phức tạp, ảnh hưởng xấu đến các nền kinh tế, nhất là các nước đang phát triển, kém phát triển. Trong bối cảnh đó, ngành Công Thương đã vượt qua những thách thức, đạt được những thành tựu nổi bật.
Năm năm qua, công nghiệp Việt Nam luôn thể hiện được vai trò, vị thế quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước. Giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2006 - 2010 khoảng 13,8%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng dần, 2005 là 31%, năm 2010 khoảng 32% GDP. Cơ cấu các ngành công nghiệp từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực. Nếu lấy năm 2005 làm mốc thì tỷ trọng công nghiệp chế biến tăng dần từ 84,7% lên 89,5% vào năm 2010. Công nghiệp khai thác giảm từ 9,2% xuống còn 4,9% năm 2010… Công nghiệp đạt được tăng trưởng cao ở cả ba khu vực: quốc doanh, ngoài quốc doanh và đầu tư nước ngoài. Việc khu vực ngoài quốc doanh tăng trưởng cao tới 18,9%, khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế, tăng tính chủ động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nhìn lại chặng đường 5 năm cho thấy rõ, quy mô và tốc độ tăng trưởng thương mại ngày càng tăng. Điều này thể hiện độ mở của nền kinh tế lớn song cũng kéo sự cạnh tranh toàn cầu ngày càng mạnh mẽ, gây khó khăn cho ngành Công Thương nhưng cũng tạo cho chúng ta trưởng thành hơn, thích nghi hơn với hội nhập quốc tế. Thương mại trong nước đã bảo đảm cân đối cung cầu những mặt hàng trọng yếu cho nền kinh tế, đưa hàng hóa tới vùng sâu, vùng xa. Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ xã hội tăng qua các năm, năm 2010 đạt khoảng 1.561,6 ngàn tỷ đồng, tăng gấp 3,25 lần năm 2005 (480 tỷ đồng).
Năm năm qua, hàng hoá nước ta đã có mặt trên hầu hết các nước, vùng lãnh thổ trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu tăng 2,2 lần, tạo điều kiện trang trải nhu cầu nhập khẩu thiết bị, vật tư và một số hàng tiêu dùng phục vụ phát triển kinh tế. Cơ cấu hàng xuất khẩu chuyển dịch tích cực, tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến gia tăng, chiếm hơn 68%, riêng năm 2010 đã có 18 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD.
Trong giai đoạn này, đã có hàng trăm doanh nghiệp, thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất-nhập khẩu, mạnh nhất là khu vực kinh tế trong nước, mức tăng trưởng cao (18,7%). Các hoạt động ngoại giao kinh tế cũng từng bước tạo dựng thế và lực trong thương mại quốc tế, mở đường cho việc ký các hiệp ước, hiệp định, quy chế với các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật bản, ASEAN, Trung Quốc... Năm 2010 đã đạt kim ngạch trên 71 tỷ USD, tăng 25,5% so với năm 2009.
Vậy, Bộ trưởng đánh giá thế nào về kết quả hoạt động năm 2010?
- Năm 2010 kinh tế thế giới dần phục hồi, tạo điều kiện cho ngành Công Thương đạt được những kết quả đáng khích lệ. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng qua từng quý. Quý II tăng 11,3% so với quý I, quý III tăng 6,7% so với quý II, quý IV tăng 3,4% so với quý III và cả năm tăng 14,0% so với năm 2009, lấy lại đà tăng trưởng như trước thời kỳ khủng hoảng (năm 2008 tăng 13,9%, năm 2009 tăng 7,6%). Theo tôi, đây là tín hiệu tốt, cho thấy ngành công nghiệp Việt Nam đã bắt đầu phát triển, dần trở thành một bộ phận, mắt xích quan trọng trong quá trình sản xuất, tiêu dùng toàn cầu.
Kim ngạch xuất khẩu đạt mức tăng trưởng cao (25,5%) vượt mức kế hoạch của Quốc hội giao (tăng 6%), nhập siêu đã được kiểm soát, dưới mức chỉ tiêu Chính phủ giao 20% KNXK (thực hiện 17,3%). Tốc độ tăng xuất khẩu đã cao hơn tốc độ tăng nhập khẩu (nhập khẩu tăng 20,1%). Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng 25,2%. Cân đối cung cầu các mặt hàng trọng yếu được bảo đảm, đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân, không để xảy ra tình trạng sốt hàng, sốt giá.
Cùng với đó, nhiều dự án đầu tư vào ngành năng lượng, khai thác và chế biến khoáng sản... được khởi công, hoàn thành góp phần nâng cao năng lực sản xuất, tạo đà cho năm 2011 và các năm tiếp theo. Đặc biệt, việc Bộ Công Thương hoàn thành tốt nhiệm vụ được Ủy ban quốc gia năm ASEAN 2010 giao cho chủ trì Hội nghị cộng đồng kinh tế ASEAN, Hội nghị các Bộ trưởng kinh tế, Bộ trưởng năng lượng ASEAN đã góp phần vào thành công chung của cả nước trong năm ASEAN 2010.
Cùng với tốc độ phục hồi của kinh tế thế giới sau khủng hoảng, kinh tế Việt Nam đã gắn với kinh tế khu vực. Năm 2011, ngành Công Thương sẽ dựa vào lợi thế nào để khẳng định mình thưa Bộ trưởng?
- Năm 2010, tăng trưởng kinh tế Việt Nam ước đạt 6,78%, nhưng chưa bền vững. Điều này thể hiện rõ ở giá trị gia tăng của các sản phẩm còn ở mức thấp, năng lực cạnh tranh cả 3 cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp, nền kinh tế còn hạn chế.
Năm 2011, Chính phủ đặt ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát làm hai mục tiêu chính. Các mục tiêu ngành Công Thương đề ra cũng cao hơn năm trước. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,8%, giá trị gia tăng tăng 7,3% so với thực hiện năm 2010. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tăng khoảng 10%; tỷ lệ nhập siêu trên kim ngạch xuất khẩu dưới 18%. Tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội tăng khoảng 25% so với năm 2010.
Với lợi thế của ngành kinh tế mũi nhọn và có nguồn nhân lực chất lượng cao, năm 2011, để tiếp tục khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế, ngành công thương đã bắt đầu triển khai đồng bộ nhiều biện pháp. Tuy nhiên, các cơ quan quản lý của Bộ Công Thương cần tích cực hơn nữa trong hoạch định chiến lược, xây dựng cơ chế, chính sách, đổi mới công tác quản lý song song với việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, đầu tư khoa học công nghệ, cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, cần siết chặt kiểm tra giám sát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp.
Nhưng những yếu tố nào được coi là then chốt nhất trong các bước triển khai của Ngành Công Thương?
- Là nước đang phát triển, kinh tế có độ mở lớn, nên ngành Công Thương Việt Nam đã và đang chịu những tác động trực tiếp từ sự bất ổn về giá cả thị trường thế giới, rào cản kỹ thuật từ các nước nhập khẩu... Trong bối cảnh đó, ngành Công Thương còn rất nhiều việc phải làm, quan trọng nhất là phải tạo ra được những cơ chế, chính sách, môi trường thuận lợi để khơi dậy, phát huy được tiềm năng của các ngành, các lĩnh vực. Đặc biệt, với những ngành công nghiệp mũi nhọn (công nghiệp năng lượng; cơ khí chế tạo; thiết bị điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin; các sản phẩm từ công nghệ mới) và 7 ngành công nghiệp ưu tiên (dệt may, da giày, nhựa, chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản, công nghiệp thép; khai thác, chế biến bauxit nhôm; hoá chất) cần có sự tập trung mang tính mạnh mẽ và chiến lược hơn.
Cũng trong năm nay, ngành Công Thương cần chú trọng đến việc xây dựng và thực hiện những cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, để nâng cao năng lực chủ động, hiệu quả của các ngành công nghiệp trong nước.
Năm qua, các doanh nghiệp của Việt Nam đã bắt đầu khai phá thị trường mới. Thế giới “phẳng” mở ra, cơ hội phát triển kinh tế, thương mại hay thách thức nhiều hơn?
- Hiện, quan hệ thương mại thế giới ngày càng theo xu hướng hai bên cùng thắng (Win – Win). Ai khai thác, tận dụng tốt các cơ hội sẽ thu về được nhiều lợi ích hơn và ngược lại. Điều này mở ra cơ hội cho kinh tế Việt Nam phát triển, song cũng có nhiều thách thức đan xen, liên quan trực tiếp tới hàng hóa, dịch vụ, tới doanh nghiệp, và hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan của Chính phủ. Do vậy, muốn thành công, chúng ta phải cùng cố gắng để tạo thành sức mạnh chung.
Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
Hải Vân (thực hiện)