
Công nghệ chế biến lạc hậuNăm 2012, diện tích trồng cây dong riềng ở Bắc Kạn được mở rộng lên trên 1.841 ha, tăng gấp trên 3 lần so với năm 2011. Để tiêu thụ hết sản lượng dong riềng, hầu hết các huyện trong tỉnh đều hỗ trợ vốn cho các hợp tác xã mới thành lập, nhóm hộ mua máy móc chế biến. Tuy nhiên, cuối năm 2012, đầu năm 2013 do tiết trời mưa phùn liên tục, độ ẩm cao khiến dong riêng có nguy cơ mọc mầm, “ngậm nước” làm cho tỷ lệ tinh bột giảm. Nhà máy chế biến dong riềng Phúc Lộc công suất 400 tấn củ/ngày không hoạt động do thiết bị trục trặc. Thế là người dân rơi vào tình trạng khóc dở mếu dở vì ế hàng. Công ty TNHH Nhất Thiện được yêu cầu tiêu thụ dong riềng nhưng do vấn đề môi trường không đảm bảo nên Công ty TNHH Nhất Thiện chỉ chế biến sản lượng nhỏ, còn lại phải chở đi tiêu thụ ở các tỉnh ngoài.
Việc phải chở đi tiêu thụ quá xa nên giá bán dong riềng chỉ từ 1.400 đồng/kg trở xuống, trong khi có cơ sở chế biến tại chỗ nông dân huyện Na Rì bán được giá 1.700 đồng/ kg trở lên. Nhằm nâng cao giá trị kinh tế cho cây dong riềng, ông Trịnh Đình Năng đã mạnh dạn nghiên cứu, thử nghiệm và thành công với công nghệ Nano trong sản xuất miến dong với một quá trình sản xuất khép kín. Trước đây, bình quân 10kg (củ dong riềng) chỉ cho 1,8kg (bột ướt) tức được 18% nhưng với công nghệ Nano sẽ cho 4kg (40%), cao gấp đôi so với công nghệ cũ.
Phát minh của ông còn giúp bảo vệ môi trường vì bao nhiêu chất phụ gia như: bã, vỏ…được cho xuống bể Bioga làm chất đốt. Công nghệ Nano của ông Năng như một “vòng quay” tái tạo sản xuất ra bột khô đóng bao, để được lâu, dùng để sản xuất miến dong khi khan hiếm nguyên liệu. Đây là dây chuyền sản xuất khép kín có nhiều ưu điểm, vừa giúp tiết kiệm vừa bảo vệ môi trường, đem lại hiệu quả kinh tế cao, cần được bảo hộTuy nhiên, ngoài cơ sở của ông Năng, phần lớn các cơ sở chế biến dong riềng trên địa bàn tỉnh nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, chỉ thu được 16- 17% tinh bột, có cơ sở chỉ thu được 13- 14% tinh bột nên bị lỗ, trong khi đó lượng tinh bột có trong củ dong riềng đạt từ 20% trở lên. Đặc biệt, hầu hết đều chưa xây dựng được công trình xử lý chất thải đạt yêu cầu, chỉ mang tính chất đối phó dẫn đến gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vào lúc cao điểm, các khu vực chế biến dong riềng bốc mùi hôi thối, nhiều dòng suối ở các huyện Na Rì, Ba Bể bị ô nhiễm hình thành lớp màng ở đáy suối, cá- tôm ... biến mất.
Bên cạnh đó, việc chế biến từ tinh bột dong riềng thành miến chủ yếu phụ thuộc vào thời tiết. Tháng giáp Tết Quý tỵ vừa qua mưa nhiều, độ ẩm cao, các cơ sở không thể phơi, sản xuất được miến. Miến dong Bắc Cạn vừa được cấp nhãn hiệu tập thể đã bị làm giả trước sự lúng túng của các cơ quan quản lý.Cần quy hoạch vùng nguyên liệu bền vữngỞ tỉnh Bắc Kạn, địa hình hiểm trở, chủ yếu là đồi núi, độ dốc cao, từ trước đến nay, chưa có loại cây nào dễ trồng, trồng trên diện rộng, phù hợp với trình độ canh tác của nông dân chủ yếu là người dân tộc thiểu số mà lại mang lại hiệu quả kinh tế cao như cây dong riềng.Năng suất dong riềng bình quân đạt 60 tấn/ ha, với giá bán trung bình 1,5 triệu đồng/ tấn, sau khi trừ chi phí, nông dân có lãi ít nhất 60 triệu đồng/ ha. Nhiều nơi, năng suất bình quân đạt hàng trăm tấn/ ha.
Cây dong riềng thực sự trở thành cây xóa đói giảm nghèo của người dân Bắc Kạn. Tuy nhiên, từ thực tế năm 2012 cho thấy, để giúp nông dân xoá giảm nghèo một cách bền vững, cần phải tổ chức lại từ khi trồng đến khâu chế biến sản phẩm dong riềng.Năm nay tỉnh có kế hoạch trồng 2.100 ha dong riềng, thực tế còn có thể sẽ cao hơn nhiều. Hầu hết các huyện, thị xã trong tỉnh đều có chính sách hỗ trợ nông dân về giống, phân bón khi trồng dong riềng lần đầu. Do đó, nông dân trồng dong riềng một cách tràn lan, chỗ đất nào trống đều có thể trồng loại cây này, dẫn đến nhiều bất cập.Một số nơi, nông dân trồng dong riềng cả dưới đất trũng, úng nước, không được thu hoạch. Trồng với mật độ quá dày, cây bị sâu bệnh. Đặc biệt, trên diện rộng, nông dân hầu như không bón phân, năng suất dong riềng đạt thấp, trong khi đó tiềm năng của loại cây này có thể đến 120- 130 tấn củ/ ha.
Một số nông dân trồng dong riềng có kinh nghiệm lâu năm ở Côn Minh- xã đầu tiên trồng cây này và trồng với diện tích lớn nhất tỉnh cho biết: Dong riềng là loại cây ăn phàm, “vắt” kiệt dinh dưỡng của đất, nông dân trồng mà không bón phân thì đất sẽ trở nên bạc màu sau vài vụ trồng, năng suất thấp, sinh nhiều sâu bệnh và sau đó không thể trồng được dong riềng trên đất đó. Mặt khác, dong riềng cho sản lượng củ lớn, nên mất nhiều công sức thu hoạch, chi phí vận chuyển đi tiêu thụ. Do chưa có quy hoạch vùng trồng nên nông dân trồng phân tán, trồng ở cả vùng sâu vùng xa không có đường giao thông, không thể vận chuyển được. Hiện nay, ở huyện Pác Nặm còn tồn đọng khoảng 250 tấn củ không tiêu thụ được, vì không có đường vận chuyển. Nhiều nơi, trồng xa đường giao thông, nông dân phải chi phí mất gần một nửa cho vận chuyển.Nhiều người cho rằng, trong khi chưa quy hoạch được vùng trồng dong riềng, các địa phương cần hướng dẫn nông dân quy trình, mật độ, loại đất nên trồng dong riềng, đặc biệt là trồng ở những nơi gần đường giao thông để thuận lợi cho việc vận chuyển đi tiêu thụ.Tìm đầu ra cho sản phẩm
Theo báo cáo của Sở Công Thương, để chế biến hết sản lượng củ dong riềng tươi (trong vòng 100 ngày), tỉnh cần có các dây chuyền chế biến tinh bột với tổng công suất là 1.252 tấn củ/ngày. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, toàn tỉnh mới có 62 cơ sở chế biến tinh bột với tổng công suất là 300 tấn củ/ngày, đạt gần 1/3 sản lượng củ theo tính toán. Trước tình hình đó, tỉnh Bắc Kạn đã kêu gọi các nhà đầu tư, người dân trong tỉnh thành lập các hợp tác xã, tổ hợp tác, các cơ sở chế biến dong riềng. Đến nay, đã có thêm 26 cơ sở đang dự kiến đầu tư mới dây chuyền chế biến tinh bột với tổng công suất 940 tấn củ/ngày.
Nếu các cơ sở này hoàn thành đúng tiến độ, thì việc giải quyết đầu ra cho củ dong riềng đã giải quyết xong.Công ty TNHH Hoàng Giang dự kiến đầu tư hai dây chuyền chế biến tinh bột tại huyện Ba Bể là 400 tấn củ/ngày và dây chuyền tại xã Mỹ Thanh (huyện Bạch Thông) công suất 100 tấn củ/ngày. Theo ông Cao Văn Khang, Giám đốc Cty TNHH Hoàng Giang, công ty sẽ tổ chức thu mua tại nhiều điểm ở Ngân Sơn, Bạch Thông, Ba Bể, Thị xã Bắc Kạn, Chợ Mới và có 4 xe ô tô vận chuyển về cơ sở chế biến. Giá thấp nhất là 1.600 đ/kg, cao nhất là 2.000 đ/kg, tùy theo chất lượng củ. Các cơ sở chế biến khác cũng cam kết mua với giá từ 1.600 đ/kg đến 2.000 đ/kg. Như vậy với giá cam kết của các cơ sở chế biến tinh bột, tính trung bình 70 tấn củ/ha, thì mỗi hecta trồng dong riềng đạt 112 triệu đồng. Đây là mức thu lý tưởng cho một sản phẩm nông nghiệp. Ngoài việc tiêu thụ hết sản phẩm củ dong riềng, còn tập trung sản xuất thành phẩm miến dong để tăng thêm giá trị của sản phẩm dong riềng, tạo nên thương hiệu miến dong Bắc Kạn.
Tỉnh Bắc Kạn cũng đang chỉ đạo các địa phương, các ngành chức năng tạo mọi điều kiện tốt nhất nhằm tháo gỡ khó khăn cho các cơ sở và người dân trong việc tiêu thụ, chế biến sản phẩm dong riềng. Ngân hàng tạo điều kiện để các Hợp tác xã, doanh nghiệp tiếp cận vốn vay với mức ưu đãi để mua sắm trang thiết bị, mua sản phẩm củ dong riềng; ngành điện phải giúp tư vấn và lắp đặt hệ thống điện đủ để các cơ sở chế biến dong riềng hoạt động. Sở Tài nguyên - Môi trường phải tư vấn, giám sát để các cơ sở chế biến dong riềng xử lý nước thải, chất thải khi chế biến không làm ảnh hưởng đến môi trường; Sở Khoa học – Công nghệ phải làm xong nhãn hiệu sản phẩm miến dong Bắc Kạn…
Khánh Chi