Những năm qua, Khuyến công Bình Định đã từng bước khẳng định được vai trò, vị thế trong cộng đồng cơ sở sản xuất CNNT, góp phần tích cực vào sự phát triển ngành CN-TTCN của địa phương. Giai đoạn 2008-2012, với tổng kinh phí gần 10 tỷ đồng Khuyến công Bình Định đã thực hiện hỗ trợ 73 đề án.


Với sự hỗ trợ của các chương trình, đề án khuyến công đến nay, số cơ sở, doanh nghiệp sản xuất CN-TTCN ở Bình Định đã tăng trưởng cả về số lượng, quy mô, chất lượng, trình độ tổ chức quản lý và tay nghề của người lao động. Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện công tác khuyến công trong những năm qua đã giúp cho lực lượng cán bộ khuyến công đúc kết được nhiều kinh nghiệm, trình độ chuyên môn từng bước được nâng lên.

 

Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được thì việc triển khai các hoạt động khuyến công ở Bình Định cũng còn không ít khó khăn. Nhiều cơ sở công nghiệp nông thôn chưa thật sự quan tâm và hiểu rõ ý nghĩa của các nội dung hỗ trợ. Nguồn kinh phí dành cho hoạt động khuyến công còn quá thấp nên phần nào hạn chế sự tích cực tham gia của các địa phương, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nông thôn. Các chương trình, đề án chưa tạo được ảnh hưởng mạnh mẽ trong cộng đồng…

 

Từ những triển khai thực tế cho thấy, để nâng cao chất lượng công tác khuyến công thì trước hết cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật Nhà nước về khuyến khích phát triển công nghiệp đến tận cơ sở sản xuất, người dân; cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp tạo sự đồng tình, ủng hộ trong xây dựng kế hoạch và triển khai hoạt động khuyến công. Tổ chức tốt, có hiệu quả công tác tư vấn, hướng dẫn lập kế hoạch và triển khai, nghiệm thu, quyết toán đề án khuyến công. Tập trung các nguồn lực kinh phí từ địa phương, cơ sở, doanh nghiệp… cho các chương trình, đề án khuyến công; có cơ chế về chính sách tín dụng ngân hàng và sự liên kết giữa các ban ngành, doanh nghiệp đối với các hoạt động khuyến công…

 

Theo đó, khi xây dựng kế hoạch khuyến công, cần quán triệt "đầu tư có chọn lọc” trên cơ sở tận dụng mọi nguồn lực, chú trọng những địa bàn trọng điểm, có tiềm năng về nguyên liệu, lao động, và đầu ra cho sản phẩm, tránh tình trạng “ôm đồm”, chồng chéo. Bên cạnh đó, thay vì lập các đề án, chương trình dàn trải, nhỏ lẻ, phức tạp, có thể lập các đề án, chương trình lớn thực hiện trong nhiều năm, chia nhiều giai đoạn, nhằm tạo điều kiện tập trung nguồn lực hỗ trợ cho nhóm ngành nghề, cơ sở sản xuất CN-TTCN phát triển. Để không bị động về tiến độ thời gian đăng ký kế hoạch khuyến công thì phải bám sát các đơn vị, cơ sở CNNT tư vấn, hỗ trợ xây dựng các dự án đầu tư sản xuất, các đề án khuyến công và thực hiện thủ tục cần thiết. Trong quá trình tổ chức triển khai đào tạo nghề, truyền nghề cần gắn kết với các doanh nghiệp, cơ sở, các hộ cá thể có năng lực, có thị trường để nâng cao chất lượng, hiệu quả.

 

Tăng cường công tác hướng dẫn kiểm tra giám sát và kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, đảm bảo hoàn thành đề án đúng tiến độ, sử dụng kinh phí hỗ trợ đúng mục đích, chế độ cũng như các quy định khác về quản lý hoạt động khuyến công; Công tác thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách khuyến công thực hiện dưới nhiều hình thức, phong phú, đa dạng thu hút sự chú ý và làm cho các cấp, các ngành nắm được để chỉ đạo, phối hợp tham gia chương trình; nhất là làm cho các cơ sở CNNT hiểu và tích cực chủ động tham gia, thụ hưởng chính sách hỗ trợ để đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh; huy động bổ sung các nguồn lực, tranh thủ sự đồng tình hợp tác, ủng hộ của các tổ chức, các tập đoàn, doanh nghiệp lớn, các chuyên gia giỏi trong và ngoài nước nhằm đẩy mạnh công tác khuyến công. Đặc biệt, sớm hình thành mạng lưới khuyến công, nâng cao năng lực chuyên môn và xây dựng đội ngũ cán bộ tâm huyết thực hiện công tác khuyến công.

 

An Ngọc