Chiến lược phấn đấu đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ  (TCMN) phải đạt 1,5 tỷ USD là có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế để đạt được chỉ tiêu  này, nhất là trong  bối cảnh khó khăn như hiện nay thì thời gian tới cần có sự liên kết giữa các cơ quan quản lý nhằm kết hợp hài hòa và tối ưu hóa các nguồn lực cho phát triển ngành  hàng này. Trong đó, các DN rất cần sự hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ thông qua các chương trình bảo tồn làng nghề, khuyến công và xây dựng hạ tầng cơ sở.

     * Ngành có giá trị xuất khẩu cao nhất:

   Sản phẩm TCMN là mặt hàng có truyền thống lâu đời của Việt Nam, được xuất khẩu khá sớm so với các mặt hàng khác, đã đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đồng thời có một vai trò quan trọng trong giải quyết một số vấn đề kinh tế xã hội tại nông thôn.  Các mặt hàng TCMN  có mức độ tăng trưởng khá cao trong những năm qua, bình quân khoảng 20%/ năm, với kim ngạch xuất khẩu 300 triệu USD trong năm 2004 và đạt hơn 750 triệu USD vào năm 2007, năm 2008 mặc dù bị  tác đông ít nhiều của  suy thoái  kinh tế  toàn cầu nhưng kim ngạch xuất khẩu cũng đã đạt gần 1 tỷ USD. Thời gian qua, thị trường xuất khẩu hàng TCMN ở nước ta ngày càng được mở rộng, ngoài các nước chủ yếu như Mỹ, Nga, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Đài Loan... Hiện  hàng TCMN Việt Nam đã có mặt tại 163 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, đây cũng là mặt hàng có tiềm năng tăng trưởng xuất khẩu rất lớn. Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN trong những năm qua tuy không lớn nhưng có vai trò quan trong chuyển đổi cơ câu kinh tế nông thôn, là ngành nghề thu hút nhiều lao động tham gia làm hàng xuất khẩu, góp phần xóa đói giảm nghèo ở nông thôn. Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này mang lại giá trị gia tăng lớn có thể coi là ngành hàng mũi nhọn để tập trung phát triển xuất khẩu trong các năm tới. Mặc dù ngành TCMN có kim ngạch xuất khẩu không cao  so với nhiều mặt hàng xuất khẩu khác, nhưng hàng mỹ nghệ lại mang về cho đất nước nguồn ngoại tệ có một tỷ trọng rất cao trong kim ngạch xuất khẩu của mình. So với một số mặt hàng khác như may mặc, gỗ và giày da do nguyên liệu đều phải nhập khẩu từ nước ngoài giá trị gia tăng của các ngành này chủ yếu là chi phí gia công và khấu hao máy móc thiết bị, cho nên giá trị thực thu ngoại tệ mang về cho đất nước chỉ chiếm một tỷ trọng từ 5-20% trong tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu.Nhưng đối với hàng TCMN do sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước đặc biệt là các nguồn nguyên vật liệu, được thu lượm từ phế liệu và thứ liệu của nông lâm sản, chẳng những mang lại hiệu quả từ thực thu giá trị ngoại tệ rất cao, có những mặt hàng TCMN hầu như đạt 100% giá trị xuất khẩu, còn lại cũng đạt trên 80% giá trị kim ngạch xuất khẩu, đồng thời xuất khẩu hàng TCMN đã giúp xã hội thu hồi một bộ phận chất thải nôngnghiệp sau chế biến và thu hoạch, đã biến phế liệu trở thành những sản phẩm xuất khẩu, góp phần tích cực cho việc bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế đất nước. Theo các nhà nghiên cứu kinh tế cứ 1 triệu USD xuất khẩu của ngành TCMN thì lãi gấp 5 – 10 lần so với ngành khai thác; giải quyết việc làm từ 3 ngàn đến 5 ngàn lao động, nhóm hàng TCMN được xếp vào nhóm sản phẩm có tiềm năng XK lớn và có tỉ suất lợi nhuận cao.Ngoài ra , theo con số thống kê cho thấy, nhiều năm trở lại đây, hàng TCMN được liệt vào danh sách 10 mặt hàng có mức tăng trưởng cao nhất. Nếu như năm 1998, hàng TCMN Việt Nam chỉ bán ở 50 nước thì nay đã có mặt trên 100 nước và vùng lãnh thổ. Điều đáng nói là giá trị thực thu từ việc xuất khẩu mặt hàng này rất cao. Theo tính toán, hàng TCMN sản xuất chủ yếu bằng nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, nguyên phụ liệu nhập ước tính chỉ chiếm từ 3 - 3,5% giá trị xuất khẩu.Bên cạnh đó, lực lượng lao động, có kỹ năng và khả năng tiếp thu công nghệ mới khá nhanh chóng, mức lương của lao động Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực đó cũng là một ưu thế cho phát triển sản xuất hàng TCMN một cách đa dạng và nâng cao sức cạnh tranh.

 * Thiếu tính bền vững

 Hiện nay,  Việt Nam có trên 2.000 làng nghề; 1,4 triệu lao động và 1000 doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng TCMN, nhưng đa số vẫn là các đơn vị vừa và nhỏ, quy mô sản xuất manh mún, nhà xưởng sản xuất còn thiếu và máy móc thiết bị phụ trợ sản xuất còn đơn sơ, lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu của những đơn hàng lớn, hoặc khi có đơn hàng lớn lại gặp phải thiếu nguyên liệu, thiếu lao động, phải huy động các cơ sở gia công riêng lẻ, dẫn đến chất lượng hàng hoá không ổn định, hoặc thời gian giao hàng kéo dài không đảm bảo được thời gian hợp đồng.Ngoài ra, qua cuộc khảo sát mới đây của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) về việc xuất khẩu hàng TCMN đã nhận định: Mặc dù tiềm năng xuất khẩu hàng TCMN Việt Nam là rất lớn, nhưng tính bền vững chưa cao. Do quy mô sản xuất nhỏ nên các doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN Việt Nam khó đáp ứng được những đơn đặt hàng lớn của nước ngoài, chưa tạo dựng được sự tin cậy đối với bạn hàng trong những hợp đồng lớn. Điều này dễ thấy khi bạn hàng tìm đến các đối tác khác mạnh hơn về quy mô, vốn, công nghệ... Ngoài ra, một trong những nguyên nhân làm giảm tính cạnh tranh của hàng TCMN Việt Nam là các doanh nghiệp đầu tư quá ít cho nghiên cứu thị trường, nhất là thị trường dành cho tạo mẫu và thiết kế. Hệ quả là rất nhiều hàng TCMN Việt Nam không có những công cụ rõ rệt và chưa hướng vào một thị trường cụ thể để chiếm lĩnh nó. Đơn cử với thị trường Nhật Bản, do ít thay đổi về mẫu mã, nên sức hấp dẫn của hàng TCMN Việt Nam vào thị trường này giảm đi nhiều. lượng sản phẩm. Nhật Bản hiện là thị trường chiếm đến gần 30% lượng hàng TCMN xuất khẩu của Việt Nam. Các chuyên gia đến từ nước này khuyến cáo, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất hàng TCMN Việt Nam cần phải chuyên nghiệp hơn nếu muốn thâm nhập sâu vào những thị trường khó tính. Bà Miyoko Sawada, Chuyên gia cao cấp Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), nhận định: “Hàng TCMN Việt Nam có rất nhiều tiềm năng và ngày càng khẳng định vị thế trên thị trường thế giới. Theo tôi, Việt Nam có 3 thuận lợi để sản xuất hàng TCMN, đó là: nguồn nguyên liệu, kỹ năng và nguồn nhân lực. Tuy nhiên, muốn đẩy mạnh xuất khẩu phải làm tốt việc xây dựng ý tưởng, tìm hiểu thông tin về sản phẩm, nhu cầu thị trường, để tạo ra sản phẩm vừa mang bản sắc văn hóa dân tộc, vừa đạt yêu cầu thẩm mỹ và phù hợp với thị hiếu, văn hóa của khách hàng. Không nên bắt chước quá nhiều những cái có sẵn, mẫu sản phẩm đang hút hàng”. Ngoài ra, theo các chuyên gia, để phát triển bền vững thì vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất cũng rất quan trọng. Thấy được nhược điểm này, thời gian qua, nhiều cơ sở sản xuất hàng TCMN tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức các cuộc thi thiết kế, với mục đích nâng cao tính đa dạng về mẫu mã của hàng TCMN Việt Nam. Ông Trần Huy Lê - Giám đốc Công ty Mỹ nghệ Hoà An - cho biết, qua khảo sát thị trường châu Âu và Hoa Kỳ cho thấy, chất lượng hàng TCMN Việt Nam có thể sánh vai, thậm chí là tốt hơn rất nhiều nước, nhưng mẫu mã luôn được coi là “đi muộn, về sau”. Do vậy, theo ông Huy, cùng với việc luôn đảm bảo chất lượng sản phẩm thì các nhà sản xuất hàng TCMN Việt Nam cần đặc biệt chú trọng đến vấn đề thiết kế mẫu mã. Khi mẫu mã không níu giữ được chân khách hàng thì chất lượng cũng không còn được họ quan tâm.

* Cần phát huy thế mạnh từ các làng nghề

 Theo thống kê của các cơ quan chức năng, những năm gần đây, Hoa Kỳ có nhu cầu nhập khẩu khoảng 13 tỷ USD/năm hàng TCMN. Tuy nhiên, xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam năm 2005 vào Hoa Kỳ chỉ chiếm 1,5% kim ngạch nhập khẩu của nước này. Năm 2006, Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ khoảng 77 triệu USD hàng TCMN, trong đó 36,8% là hàng gốm sứ, tăng 27,6% so với năm 2005 và gấp 7 lần so với năm 2002. Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 sẽ nâng tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN vào Hoa Kỳ lên 3% (đạt kim ngạch 0,4 tỷ USD). Trong khi đó, thị trường EU cũng có nhu cầu rất lớn về mặt hàng này. Theo các chuyên gia, thị trường EU trong những năm qua đã nhập khẩu khoảng 7 tỷ USD và Việt Nam cũng đã chiếm được 5,4% kim ngạch nhập khẩu trong số đó. Bộ Công Thương nhận định, trong tương lai, EU sẽ là thị trường hứa hẹn của hàng TCMN Việt Nam. Vì vậy, mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 sẽ nâng tỷ lệ này lên trên 6,4% (đạt kim ngạch trên 600 triệu USD). Theo Bộ Công Thương, ngoài việc phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài Chính và các địa phương để giải quyết về vấn đề nguyên liệu, tài chính, mặt bằng sản xuất kinh doanh thì vấn đề đẩy mạnh xúc tiến XK vào một số thị trường trọng điểm sẽ là khâu đột phá để tăng kim ngạch XK trong thời gian tới. Cụ thể như, Hoa Kỳ, mỗi năm NK tới 13 tỉ USD, Việt Nam không chỉ chiếm ở con số 1,5% kim ngạch NK của nước này mà phải là 400 triệu USD vào năm 2010; Thị trường EU, mỗi năm NK khoảng 7 tỉ USD, Việt Nam cũng chỉ chiếm 5,4% trong số kim ngạch đó, đến năm 2010 chúng ta phải XK vào đây 600 triệu USD; Nhật Bản: mỗi năm NK khoảng 2,9 tỉ USD, nhưng Việt Nam chỉ khiêm tốn chiếm 1,7% kim ngạch NK đó, mục tiêu năm 2010 sẽ phải đưa lên trên 4% với kim ngạch khoảng 150 triệu USD.Thị trường Trung Đông là khu vực tiềm năng, mấy năm gần đây các DN cũng đã thực hiện nhiều hoạt động xúc tiến thương mại, nhưng chưa đẩy mạnh XK được. Trong thời gian tới, đây vẫn là thị trường ngỏ để các DN tiếp tục thâm nhập Như vậy, việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm TCMN với kim ngạch xuất khẩu 1,5 tỷ USD hàng TCMN vào năm 2010 là điều có khả năng đạt được . Muốn vậy, các DN sản xuất hàng TCMN nên chủ động liên kết lại xây dựng làng nghề hoặc cụm sản xuất TCMN. Mỗi cụm hay làng nghề có thể do 5-10 doanh nghiệp cộng tác thành lập, hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh như chia sẻ các hợp đồng lớn hoặc phân công phân khúc sản xuất. Tận dụng và phát huy hết công năng cơ sở vật chất và năng suất của máy móc thiết bị tại các đơn vị. Bổ sung lẫn nhau và ổn định việc làm cho lực lượng lao động. Thông qua cụm sản xuất hoặc làng nghề để phô trương khả năng sản xuất, nâng tính phong phú đa dạng sản phẩm thu hút sự quan tâm và lòng tin của người mua hàng. Theo ông Đỗ Như Đính, Chủ tịch Hiệp hội xuât khẩu hàng TCMN cho rằng, thời gian tới cần có sự liên kết giữa các cơ quan quản lý nhằm kết hơp hài hòa và tối ưu hóa các nguồn lực cho phát triển ngành này. Ông Trần Quốc Mạnh, Chủ tịch HĐQT Công ty CP phát triển sản xuất thương mại Sài Gòn (SADACO): Để đạt mục tiêu đến năm 2010 kim ngạch XK phải là 1,5 tỉ USD là rất khó thực hiện nếu như ngay bây giờ chúng ta chưa có những tác động mạnh mẽ của Chính phủ và các tổ chức khác cũng như bản thân các DN, làng nghề. Ông Mạnh cho rằng: Thời gian cho mục tiêu XK 1,5 tỉ USD vào năm 2010 không còn nhiều. Hy vọng rằng, sự ra đời của Hiệp hội XK hàng TCMN cùng với những phương hướng hoạt động cũng như những giải pháp phát triển XK của Bộ Công Thương là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, nếu mới chỉ tháo ở “ngọn” như xúc tiến mở mang, đẩy mạnh XK vào các thị trường mà phần “gốc” liên quan tới Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài Chính... như tạo nguồn nguyên liệu, các ưu đãi, thủ tục tài chính... chưa được triển khai đồng bộ thì e rằng chưa phát huy được hiệu quả.. Nếu có chính sách khuyến khích phù hợp, sẽ giúp doanh nghiệp ngành TCMN có điều kiện đầu tư phát triển, tăng cường khả năng sản xuất, tạo ra các sản phẩm có mẫu mã riêng, kiểu dáng đẹp, chất lượng phù hợp, hữu ích với giá cả hợp lý có khả năng tiếp nhận các đơn hàng lớn, mở rộng thị trường xuất khẩu, thì việc thực hiện mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 1,5 tỷ USD vào năm 2010 là hoàn toàn có thể thực hiện được./.

 Lê Hiền