Sản xuất công nghiệp tăng trưởng 7,6%
Báo cáo tổng kết công tác năm 2014, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú khẳng định: Năm 2014, cả nước nói chung và ngành Công Thương nói riêng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế thế giới phục hồi chậm, ảnh hưởng đến kinh tế trong nước; cạnh tranh trong tiêu thụ hàng hoá toàn cầu ngày càng gay gắt; bất ổn về chính trị ở một số khu vực trên thế giới có tác động bất lợi đến quan hệ thương mại, đầu tư với Việt Nam, v.v... Trong khi đó, ở trong nước chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, ách tắc của doanh nghiệp trong một số lĩnh vực chậm được tháo gỡ. Các yếu tố trên đã có tác động nhất định đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Song do triển khai thực hiện tốt các giải pháp, chính sách đề ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02 tháng 01 năm 2014 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2014 và Nghị quyết các phiên họp thường kỳ của Chính phủ, cùng với đó là sự quyết liệt trong điều hành của các cơ quan quản lý Nhà nước và sự nỗ lực của các doanh nghiệp, ngành Công Thương đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Năm 2014, sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tăng 7,6% (cao hơn so với mức tăng 5,9% của năm 2013). Giá trị gia tăng công nghiệp ước tăng khoảng 7,14% (cao hơn mức 5,4% của năm 2013).
Các ngành sản xuất và phân phối điện và ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, ngành khai khoáng có mức tăng trưởng chỉ số sản xuất cao hơn so với mức tăng của cùng kỳ năm trước. Chỉ số tiêu thụ tăng 11,1% so với cùng kỳ năm 2013 (cao hơn so với mức tăng 10,4% của cùng kỳ năm 2013 so với năm 2012) trong đó tăng cao ở những nhóm hàng sản xuất các thiết bị truyền thông, linh kiện điện tử, giầy dép, dây cáp điện.
Thứ trưởng Nguyễn Cẩm Tú báo cáo kết quản thực hiện năm 2014
Chỉ số tồn kho chung của toàn Ngành giảm dần qua các tháng phù hợp với quy luật, hiện nay tồn kho đã ở mức bình thường (tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01 tháng 12 năm 2014 tăng 10% so với cùng kỳ năm 2013, thấp hơn mức tăng tồn kho 10,2% tại thời điểm 01 tháng 12 năm 2013 so với cùng kỳ năm 2012).
Sản xuất công nghiệp năm 2014 ghi nhận sự phục hồi đáng kể của tất cả các nhóm ngành công nghiệp. Sản xuất của một số nhóm ngành công nghiệp chế biến có mức tăng trưởng cao tập trung ở các ngành có thị trường xuất khẩu ổn định, tỷ trọng lớn như: dệt may, da giầy, sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học và thị trường trong nước tiêu thụ tốt như: dây cáp điện, giầy dép... đã góp phần đáng kể vào mức tăng chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2014.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Cẩm Tú, đạt được kết quả đáng khích lệ như trên là nhờ sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự quyết tâm thực hiện nghiêm túc của các Bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; ưu tiên nguồn lực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư chiều sâu, nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, mở rộng thị trường.
Về hoạt động thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu (KNXK) năm 2014 ước đạt 150 tỷ USD, vượt 3,16 điểm % so với kế hoạch (kế hoạch là 145,4 tỷ USD), tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2013 (tương đương với hơn 18 tỷ USD); xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước đạt 48,44 tỷ USD tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước. Năm 2014, có 23 nhóm hàng có KNXK trên 1 tỷ USD.
Tổng kim ngạch nhập khẩu (KNNK) năm 2014 ước đạt 148 tỷ USD, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm 2013. Kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt hơn 84,56 tỷ USD, tăng 13,6% và chiếm tỷ trọng hơn 57% tổng KNNK cả nước; kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước đạt hơn 63,49 tỷ USD và chiếm tỷ trọng gần 43% tổng KNNK cả nước, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm 2013.
Xuất siêu năm 2014 ước 1,984 tỷ USD, trong đó, khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất siêu hơn 9,8 tỷ USD, nếu kể cả dầu thô khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài xuất siêu khoảng 17 tỷ USD. Các doanh nghiệp trong nước nhập siêu khoảng 15 tỷ USD. Việt Nam xuất siêu với thị trường EU, Hoa Kỳ... nhưng vẫn nhập siêu với một số nền kinh tế khu vực Châu Á.
Quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá đều vượt mức kế hoạch đề ra, Việt Nam tiếp tục xuất siêu. Cơ cấu các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam có những chuyển dịch tích cực, phù hợp với lộ trình thực hiện mục tiêu của Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030, cụ thể nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất 73,5% (tăng 1,6% so với cùng kỳ), theo sau lần lượt là nhóm hàng nông sản, thủy sản 14,8% (giảm 1%) và nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản 6% (giảm 1,2%).
Tăng trưởng xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến đóng góp vai trò quan trọng trong tăng trưởng, mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện tiếp tục là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất (hơn 24 tỷ USD, chiếm 16% KNXK). Xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước đã có sự hồi phục, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này ước tăng trưởng ở mức 10,4% (năm 2013 là 3,5%) và kim ngạch nhập khẩu tăng 10,2% (năm 2012 là 5,6%). Nhập khẩu năm 2014 tiếp tục phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất và xuất khẩu. Nhập khẩu nhóm hàng không khuyến khích giảm. Điều này thể hiện việc điều hành kiểm soát nhập khẩu hiệu quả.
Đối với thị trường trong nước, việc cân đối cung cầu hàng hóa kể cả hàng thông dụng và hàng thiết yếu được bảo đảm, đáp ứng các nhu cầu về sản xuất và tiêu dùng của mọi tầng lớp dân cư, không để xảy ra tình trạng sốt giá, sốt hàng. Nhiều hoạt động xúc tiến thương mại trong nước được triển khai tích cực cùng với việc thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đã từng bước góp phần tạo nên sự thay đổi trong nhận thức của người tiêu dùng về hàng Việt Nam.
Bộ Công Thương cùng với các Bộ, ngành đã tích cực tham gia các sự kiện quốc tế quan trọng, các Hiệp định khu vực thương mại tự do (FTA), tăng cường hợp tác trong khối ASEAN, APEC, WTO, và các tổ chức quốc tế khác.
Thực hiện tốt việc làm đầu mối theo dõi và phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai thực hiện, hướng dẫn và giải đáp thắc mắc của các Bộ, ngành, các doanh nghiệp và đối tượng liên quan về việc thực thi các cam kết WTO; Tiến hành rà soát kết quả Hội thảo quốc gia về đánh giá nhu cầu tạo thuận lợi thương mại của WTO. Tiếp tục tham gia các phiên đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Trong những tháng cuối năm 2014, Việt Nam và các đối tác đã cơ bản kết thúc đàm phán 3 Hiệp định thương mại tự do là: FTA giữa Việt Nam với Liên minh châu Âu, FTA giữa Việt Nam với Hàn Quốc và FTA giữa Việt Nam với Liên minh Hải quan Nga-Belarus-Kazakhstan.
Ổn định kinh tế vĩ mô
Tại Hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Cẩm Tú cũng thông báo kế hoạch phát triển công nghiệp và thương mại năm 2015, trong đó mục tiêu tổng quát về phát triển kinh tế - xã hội của năm 2015 là tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình phát triển và nâng cao hiệu quả, bảo đảm nền kinh tế phát triển bền vững và tăng trưởng hợp lý. Thực hiện tốt các mục tiêu an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo đảm giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Đẩy mạnh cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Ngành Công Thương phấn đấu đạt những mục tiêu như: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng khoảng 7,8-7,9% so với ước thực hiện 2014. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2015 đạt khoảng 165 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2014. Tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 171 tỷ USD, tăng 15,2% so với năm 2014. Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng dưới 5%. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ước tăng khoảng 11-12%. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng khoảng 5%.
Về ổn định kinh tế vĩ mô tham gia tích cực vào việc đảm bảo ổn định thị trường, thắt chặt công tác quản lý, kiểm tra thị trường, xử lý kịp thời, đặc biệt tại các điểm nóng, vùng giáp biên, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng nhằm tạo cơ hội tăng thị phần hàng hoá của Việt Nam trên thị trường nội địa.
Thực hiện quyết liệt Chỉ thị số 11/CT-BCT ngày 22 tháng 4 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Công Thương về việc tăng cường công khai, minh bạch hóa đối với các hoạt động kinh doanh điện, xăng dầu. Tiếp tục thực hiện tốt các giải pháp phát triển thị trường trong nước, theo đó tích cực triển khai thực hiện các Chương trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Đề án phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2014 - 2020.
Thực hiện có hiệu quả các giải pháp khuyến khích, đẩy mạnh xuất khẩu, đảm bảo chất lượng hàng hóa, nâng cao khả năng giải quyết tranh chấp thương mại, hỗ trợ thông tin thị trường thế giới, v.v... Tiếp tục đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại với các hoạt động chủ yếu là: tổ chức các gian hội chợ, triển lãm chuyên ngành, hoạt động giao thương xúc tiến các ngành hàng xuất khẩu có tiềm năng như thực phẩm chế biến, thủy sản, nông sản nhằm củng cố, phát triển thị trường xuất khẩu truyền thống, tiềm năng như EU, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... và khai thác thị trường xuất khẩu mới ở Tây Á; hỗ trợ công tác thông tin, dự báo thị trường trong và ngoài nước, sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật.
Tổ chức hiệu quả, đồng bộ công tác thông tin, dự báo, bám sát tình hình thị trường; thực hiện các biện pháp phù hợp để đảm bảo cân đối cung - cầu các mặt hàng thiết yếu, nhất là trong các dịp lễ, Tết; kịp thời áp dụng các biện pháp điều tiết cung - cầu, bình ổn thị trường, nhất là những mặt hàng thuộc diện bình ổn giá, những mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống, không để xảy ra tình trạng thiếu hàng, sốt giá; chỉ đạo các tham tán thương mại tại nước ngoài, đặc biệt là tại các thị trường trọng điểm kịp thời nắm bắt các thay đổi về chính sách, cơ chế quản lý nhập khẩu, kiểm soát chất lượng hoặc những thông tin bất lợi đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam tại các thị trường để kịp thời thông báo cho các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp, Hiệp hội tạo điều kiện chủ động phối hợp, ngăn ngừa, giải quyết sớm các vụ việc phát sinh.
Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu sản xuất công nghiệp cả về ngành kinh tế kỹ thuật, vùng và giá trị mới, tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm; Đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ. Triển khai thực hiện hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành công thương; tiếp tục thực hiện quyết liệt việc tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính theo Kế hoạch đã được phê duyệt. Tiếp tục triển khai các giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất, tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ, khuyến khích tiêu dùng, đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng tồn kho. Từng bước thực hiện các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng gia công, lắp ráp.
Tập trung phát triển sản xuất công nghiệp theo chiều sâu để từng bước tạo ra những sản phẩm có thương hiệu quốc gia và có sức cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ đáp ứng nguyên liệu đầu vào, từ đó giảm nhập khẩu; đồng thời tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, cung ứng sản phẩm.
Tiếp tục thực hiện các chương trình, kế hoạch trong hoạt động hội nhập quốc tế sâu rộng thông qua công tác đàm phán các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thực hiện nghiêm túc các cam kết, thỏa thuận hợp tác kinh tế, khai thác các lợi thế của các thoả thuận này đem lại cho doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam; tận dụng không gian chính sách đã đạt được trong đàm phán để xây dựng các cơ chế chính sách khuyến khích sản xuất - kinh doanh và phát triển các quy định về quản lý thận trọng nền kinh tế - tài chính; tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật của các nước, các tổ chức quốc tế để xây dựng năng lực quản lý bao gồm khung pháp lý và đào tạo nguồn nhân lực.
Tăng cường phổ biến, hướng dẫn, có giải pháp phù hợp hỗ trợ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả tại các thị trường đã có FTA; chủ động, tích cực trong đàm phán FTA nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu. Tập trung nghiên cứu, đề xuất triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ, xây dựng và nâng cao năng lực cạnh tranh công nghiệp, các dự án hỗ trợ kỹ thuật nâng cao năng lực trong lĩnh vực hoạch định chính sách công nghiệp.
Các doanh nghiệp cần chủ động lựa chọn phương án phù hợp trong đổi mới công nghệ sản xuất, chủ động năng cao năng lực quản trị, chủ động tiếp cận và mở rộng thị trường; đồng thời phải xây dựng chiến lược kinh doanh, phương án kinh doanh khả thi cho doanh nghiệp nói chung và cho từng mặt hàng nói riêng.
Công khai minh bạch trong điều hành đối với giá năng lượng
Tại Hội nghị, ông Nguyễn Tiến Vỵ, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch đã trình bày Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2015. Theo đó, tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi, phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng. Thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, quản lý và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong điều hành tài chính-ngân sách. Tổ chức, điều hành dự toán ngân sách nhà nước theo đúng quy định của phát luật. Tổ chức thực hiện tốt các Luật thuế và nhiệm vụ thu ngân dách nhà nước theo Nghị quyết của Quốc hội. Điều hành, quản lý chi ngân sách nhà Nước theo đúng dự toán được giao. Cắt giảm tối đa các khoản kinh phí hội nghị, hội thảo, các hoạt động phô trương, lãng phí không cần thiết. Đảm bảo tiến độ giải ngân vốn đầu tư phát triển, nhất là các nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ, ODA; tập trung vốn đầu tư cho các công trình quan trọng, cấp bách. Triển khai xây dựng kế hoạch sản xuất công nghiệp và thương mại năm 2016-2020.
Phát triển thị trường, đảm bảo cân đối cung cầu hàng hóa, tăng cường kiểm soát thị trường, giá cả. Tăng cường công tác quản lý điều hành, theo dõi sát diễn biến thị trường, có biện pháp điều tiết kịp thời, đảm bảo cân đối cung cầu hàng hóa, không xảy ra tình trạng thiếu hàng, tăng giá bất hợp lý, đặc biệt là các thời điểm nghỉ Lễ, Tết.
Đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ của Đề án phát triển thị trường trong nước gắn liền với việc thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2014-2020, phát triển hệ thống phân phối các hoạt động kết nối cung cầu tiêu thụ sản phẩm, góp phần phát triển mạnh mẽ thị trường hàng hóa, giảm sự phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu.
Đẩy mạnh việc thực hiện các nhiệm vụ của Chương trình phát triển thương mại điện tử quốc gia. Trình Thủ tướng phê duyệt chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo. Tăng cường công tác quản lý thị trường, bảo đảm môi trường cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, bảo vệ lợi dụng người tiêu dùng. Thực hiện Công khai minh bạch trong điều hành đối với giá năng lượng và các hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu khác theo quy định của pháp luật quản lý giá.
Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Tổ chức thực hiện tốt chương trình hành động thực hiện Chiến lược xuất khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030. Hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các Đề án phát triển thị trường ngoài nước đến năm 2020, Đề án các biện pháp quản lý nhập khẩu năm 2020 phù hợp với cam kết quốc tế. Thực hiện đồng bộ các biện phát đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường, khai thác tốt những thị trường hiện có và những thị trường tiềm năng, để xuất khẩu các mặt hàng có giá trị tăng và giá trị kim ngạch cao.
Tạo lập môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh. Thực hiện có hiệu quả tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Thực hiện đổi mới cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ. Đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai.
Hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí và giải quyết khiến nại, tố cáo. Đảm bảo quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc té. Tăng cường công tác thông tin truyền thông.
Hoàn thành vượt mức tất cả các chỉ tiêu kế hoạch đề ra
Tại Hội nghị, các Tập đoàn, Tổng công ty, Sở Công Thương các tỉnh, thành phố đã đưa ra một số khó khăn, kiến nghị và giải pháp để góp phần thực hiện mục tiêu phát triển của Ngành trong năm 2015 và những năm tiếp theo. Nhấn mạnh đến những thành tích mà Tập đoàn Dầu Khí quốc gia Việt Nam đạt được trong năm 2014, ông Nguyễn Xuân Sơn, Chủ tịch Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) cho biết, năm 2014 mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt từ tháng 10/2014, giá dầu thô liên tục giảm sâu nhưng do sự nỗ lực vượt khó của tập thể cán bộ công nhân viên, Tập đoàn đã hoàn thành toàn diện và vượt mức tất cả các chỉ tiêu kế hoạch đề ra, tiếp tục đóng góp vào GDP và ngân sách Nhà nước.
Ông Nguyễn Xuân Sơn cũng cho biết, trong năm tới để thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch đề ra trong năm 2015 và thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển của PVN đến năm 2025, định hướng đến năm 2035, góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, PVN đang triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp để ứng phó kịp thời với những biến động khó lường của giá dầu tới các chỉ tiêu kế hoạch năm của Tập đoàn và các chỉ tiêu kinh tế, xã hội của đất nước trong năm 2015.
Báo cáo tình hình triển khai thực hiện Nghị định số 83/2014/NĐ-CP (Nghị định 83) của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu, ông Bùi Ngọc Bảo, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam khẳng định, Nghị định 83 là sự kế thừa những điểm mạnh, khắc phục những mặt hạn chế của Nghị định số 84/2009/NĐ-CP sau hơn 4 năm triển khai, thể hiện sự kiên định của Chính phủ trong việc chuyển sang cơ chế thị trường đối với kinh doanh xăng dầu.
Ông Bùi Ngọc Bảo cũng nhấn mạnh, qua ba lần điều chỉnh giá bán xăng dầu của Liên Bộ Công Thương - Tài chính theo Nghị định 83 đã làm cho giá bán trong nước ngày càng phản ánh sát hơn với diễn biến của giá xăng dầu trên thị trường thế giới. Đồng thời, Nghị định 83 cũng đã tạo được hành lang pháp lý rõ ràng hơn, giúp Liên Bộ, doanh nghiệp có căn cứ trong việc điều chỉnh giá bán và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước dư luận xã hội.
Ông Hoàng Quốc Vượng, Chủ tịch Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho biết, năm 2015, Tập đoàn Điện lực Việt Nam tiếp tục đảm bảo cung ứng đủ điện cho phát triển kinh tế xã hội và đời sống nhân dân; nỗ lực hoàn thành các nhiệm vụ, chỉ tiêu chính của kế hoạch 5 năm 2011-2015; đảm bảo tiến độ các công trình nguồn và lưới điện, đặc biệt là các dự án điện cho miền Nam; hoàn thành nhiệm vụ tái cơ cấu Tập đoàn giai đoạn 2012-2015; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tăng năng suất lao động; sản xuất và kinh doanh có lợi nhuận, đảm bảo thu nhập và đời sống cho người lao động.
Kết luận Hội nghị, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng nhấn mạnh: Trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, quán triệt chủ trương của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự đồng thuận của xã hội, của cộng đồng doanh nghiệp cùng các Bộ, ban, ngành, trong 14 chỉ tiêu đã đề ra trong 2014 có 13 chỉ tiêu đạt vượt kế hoạch, đạt và vượt chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế.
Về kinh tế vĩ mô kiểm soát dưới 5%. Năm 2014 CPI so với 2013 tăng hơn 4%, thấp nhất so với những năm gần đây. Dự trữ ngoại hối trong tiêu chí an toàn. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,6% so với 5,6% của năm 2013. Hàng tồn kho duy trì ở mức bình thường (10% so với 10,2% của năm 2013) là nỗ lực lớn của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Với sự nỗ lực của toàn Ngành, sản xuất công nghiệp luôn duy trì đà sản xuất tháng sau cao hơn tháng trước; năm sau cao hơn năm trước. Sản xuất toàn ngành công nghiệp cao hơn nhiều năm. Nhiều doanh nghiệp trong nước đã sản xuất được nhiều mặt hàng phục vụ đời sống nhân dân. Kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng cao, chủng loại xuất khẩu hàng hóa cũng ngày càng đa dạng, xuất khẩu thô ngày càng giảm.
Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng chỉ đạo trong năm 2015, toàn ngành Công Thương cần thực hiện nhiêm vụ sau: Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh; Triển khai mở rộng thị trường cả trong nước và xuất khẩu; Tiếp tục triển khai các biện pháp thực hiện Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam để thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước; Tái cơ cấu ngành Công Thương phải gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, phát triển chiều sâu, đổi mới công nghệ, đào tạo, nâng cao chất lượng lao động; Thực hiện nền kinh tế thị trường. Tăng cường công tác quản lý thị trường, hiệu quả quản lý thị trường, kiểm soát hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Tăng cường phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại; Hoàn thành các kế hoạch, các Đề án mà Chính phủ đã guao cho ngành Công Thương; Tích cực đàm phán để kết thúc thành công các Hiệp định thương mại tự do Việt Nam đang đàm phán, đồng thời thực hiện tốt các Hiệp định đã kí kết; Tiếp tục triển khai cải cách các thủ tục hành chính, đơn giản hóa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cũng như cho các nhà đầu tư; Tiếp tục đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, chống tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến kịp thời chính sách của Đảng và Nhà nước đến người dân.
Nguồn: moit.gov.vn