Nghệ An sau 2 năm thực hiện Nghị quyết số 06/ NQ-TU Ngày 04 tháng 11 năm 2011, BCH Đảng bộ tỉnh Nghệ An đã ban hành Nghị quyết số 06/NQ-TU về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (TTCN) và xây dựng làng nghề thời kỳ 2011 – 2020. Đây là Nghị quyết quan trọng trong quá trình phát triển công nghiệp, TTCN của tỉnh, cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An khoá XVII.


Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, việc thích ứng từ thay đổi cơ chế chính sách, điều hành kinh tế vĩ mô từ Trung ương đối với một số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp chậm, ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết đề ra. Sau gần 2 năm thực hiện Nghị quyết, Nghệ An đã thu được một số kết quả khá.

Sản xuất công nghiệp luôn giữ mức tăng trưởng cao hơn mức bình quân chung cả nước. Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp tăng 9,12%/16-17 % so với mục tiêu. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 23.936 tỷ đồng. Tỷ trọng công nghiệp xây dựng trong GDP của tỉnh năm 2011 đạt 28,43%, năm 2012 đạt 29,24%/39-40% so với mục tiêu đến năm 2015. Thu ngân sách từ sản xuất công nghiệp đạt trên 2.000 tỷ đồng. Năm 2012 đã tạo thêm trên 10.000 việc làm việc mới từ các dự án đầu tư ngành may mặc và điện tử (mục tiêu đề ra 5.000-10.000 việc làm mới hàng năm).

Một số ngành, lĩnh vực công nghiệp phát triển khá. Ngành bia đạt công suất 200 triệu lít/250 triệu lít/năm mục tiêu đến năm 2015. Sản lượng bia năm 2012 đạt 166 triệu lít, đảm bảo thu ngân sách đạt gần 1.000 tỷ đồng. Năng lực sản xuất công nghiệp chế biến nông lâm thủy hải sản ổn định, các nhà máy phát huy được công suất, sản lượng sản phẩm tồn kho giảm dần. Sản lượng đường đạt 96,67 ngàn tấn, chế biến sữa đạt 34 triệu lít; chế biến chè đạt 12.644 tấn, sản phẩm chế biến thủy hải sản các loại đạt trên 21.000 tấn... hoàn thành đầu tư, đưa vào sản xuất một số nhà máy may, lắp ráp điện tử có qui mô lớn tại các CCN Nam Giang, Lạc Sơn, Tháp – Hồng - Kỷ, thị trấn Anh Sơn, thị trấn Yên Thành, thu hút gần 15.000 lao đông khu vực nông thôn.

Sản xuất vật liệu không nung phát triển khá mạnh mẽ, năng lực sản xuất mới tăng thêm đạt gần 30 triệu viên, sản lượng gạch không nung đạt trên 135 triệu viên. Đã thu hút và đang triển khai đầu tư được nhiều dự án có công suất lớn (Dự án sản xuất gạch Block bê tông nhẹ, công suất 400.000m3/năm tại khu công nghiệp Đông Hồi do Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt nam làm chủ đầu tư; Dự án sản xuất gạch không nung, công suất 45 triệu viên/năm do Công ty Cổ phần VLXD Miền Trung làm chủ đầu tư; Dự án sản xuất gạch không nung, công suất 26 triệu viên/năm do Công ty CP Xây dựng Thương mại Sơn Trang làm chủ đầu tư tại cụm công nghiệp Trường Thạch; Dự án sản xuất gạch Block bê tông nhẹ, công suất 400.000m3/năm tại thị xã Thái Hòa do Công ty Cổ phần ĐTXDTM & CN Hà Nội thuộc Ngân hàng Bắc Á làm chủ đầu tư; Dự án sản xuất gạch không nung bằng phương pháp Polime hóa, công suất 15 triệu viên/năm tại thị trấn Tân Kỳ do Công ty TNHH Kiều Phương làm chủ đầu tư).

Có thêm 2 công trình thủy điện hoàn thành đầu tư xây dựng, đưa số lượng các nhà máy thủy điện đã phát điện đạt 5 nhà máy với tổng công suất 522,5 MW (gồm Bản Vẽ, Bản Cốc, Bản Cánh, Sao Va, Hủa Na) cung cấp sản lượng điện thương phẩm 1.427,13 triệu kwh năm.

Sản xuất TTCN, làng nghề khá ổn định trên một số lĩnh vực, nhóm ngành hàng như chế biến thủy hải sản, nông sản thực phẩm, mộc dân dụng và mỹ nghệ. Giá trị sản xuất đạt xấp xỉ 3.000 tỷ đồng. Đã thu hút lực lượng lao động thường xuyên gần 25.000 người. Xây dựng và công nhận thêm 8 làng nghề đưa tổng số làng nghề 119 làng/mục tiêu 150 làng.

Phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp được quan tâm và tập trung chỉ đạo thực hiện từ khâu qui hoạch, lập dự án đầu tư, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, vận động thu hút đầu tư, hỗ trợ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Đã hoàn thành cơ bản qui hoạch chi tiết các khu chức năng trong khu kinh tế Đông Nam, cảng nước sâu Cửa Lò, Đông Hồi, 5 khu công nghiệp (Hoàng Mai, Đông Hồi, Nghĩa Đàn, Sông Dinh, Tân Kỳ) và 32 cụm công nghiệp.

Khu kinh tế Đông Nam, các KCN đã thu hút được 106 dự án đầu tư, trong đó có 11 dự án đầu tư nước ngoài (FDI), tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 19.556 tỷ đồng và 1.073,91 triệu USD, có 46 dự án đi vào hoạt động. Hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong khu kinh tế, các khu công nghiệp bước đầu đạt kết quả khá. Giá trị sản xuất đạt 4.000 tỷ đồng (tăng18 % so với năm 2011). Thu ngân sách đạt 520 tỷ đồng (tăng 61 % so với năm 2011); Tạo việc làm cho 7.700 lao động.

Mặc dầu còn nhiều khó khăn, nhưng để đảm bảo khuyến khích thút đầu tư phát triển công nghiệp ngân sách tỉnh vẫn ưu tiên cân đối đủ nguồn vốn hỗ trợ đáp ứng kịp theo các cơ chế đã ban hành. Tổng số chi đạt 123,88 tỷ đồng (hỗ trợ khuyến khích ưu đãi đầu tư 60 tỷ đồng, hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng CCN 46,44 tỷ đồng, hỗ trợ phát triển TTCN, làng nghề 23,44 tỷ đồng).

So với mục tiêu nhiệm vụ Nghị quyết, các kết quả đạt được trên mới chỉ là bước đầu. Nhiệm vụ phát triển công nghiệp của Nghệ An trong những năm tiếp theo còn lớn.

Về Công nghiệp chế biến: Tập trung phát triển ngành sản xuất vật liệu xây dựng (xi măng, gạch không nung, gạch granit, v.v…) trở thành ngành chủ lực đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu, trước hết ưu tiên tạo mọi điều kiện thuận lợi để sớm đưa các dự án Xi măng Tân Thắng, Xi măng Đô Lương hoàn thành đầu tư và đi vào sản xuất cuối năm 2014 đầu năm 2015, đồng thời khai thác triệt để công suất các nhà máy xi măng Cầu Đước, Xi măng Dầu khí, Xi măng Hoàng Mai đảm bảo năng lực sản phẩm đạt tối thiểu 5,2 triệu tấn. Tiếp tục kêu gọi đầu tư xi măng Tân Kỳ, phối hợp để dự án xi măng Hoàng Mai 2 làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, đẩy nhanh tiến độ để làm tiền đề phát triển từ năm 2016.

Đẩy mạnh thác hết công suất các nhà máy bia hiện có trên cơ sở đó làm việc với nhà đầu tư để xác định phương án đầu tư mở rộng, nâng cấp nhà máy bia Hà Nội – Nghệ An đảm bảo sản lượng theo mục tiêu đề ra. Trên cơ sở phát triển vững chắc đàn bò sữa và đồng cỏ phục vụ chăn nuôi đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà máy chế biến sữa tại Nghĩa Đàn, nâng công suất chế biến nhà máy tại Cửa Lò

Ổn định vùng nguyên liệu mía đồng thời với đầu tư thâm canh tăng năng suất đảm bảo sản lượng mía đủ cho 03 nhà máy đường phát huy công suất hiện nay. Xây dựng các cụm chế biến hải sản ở các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc và thị xã Cửa Lò để phát huy hiệu quả sản xuất, tạo điều kiện xử lý môi trường, đa dạng hoá sản phẩm chế biến. Nâng công suất và đổi mới thiết bị công nghệ chế biến súc sản, kêu gọi đầu tư mới nhà máy chế biến thịt hộp công suất 1.500 tấn sản phẩm/năm.

Tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến độ đầu tư, nhất là dự án của Hanosimex, để hoàn thành cụm công nghiệp sợi - dệt - may Nam Giang (Nam Đàn). Tiếp tục kêu gọi đầu tư xây dựng các dự án sợi, dệt, may vào khu công nghiệp Thọ Lộc trong Khu kinh tế Đông Nam và Thị xã Thái Hòa.

Tiếp tục qui hoạch phát triển ngành công nghiệp cơ khí, điện tử để có cơ sở kêu gọi và tổ chức đầu tư phát triển. Phục hồi và phát triển các cơ sở lắp ráp ô tô xe máy trên cơ sở hợp tác, liên doanh liên kết mở rộng thị trường tiêu thụ. Tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, liên doanh liên kết với nước ngoài để đầu tư phát triển khu công nghiệp công nghệ cao trong khu kinh tế Đông Nam gắn với phát triển nguồn nhân lực.

Đối với Công nghiệp khai thác chế biến khoáng sản, cần sớm hoàn thành đề án hiện đại hóa ngành công nghiệp khai thác chế biến khoáng sản nằm trong chương trình của Chính phủ để triển khai thực hiện. Trước mắt rà soát qui hoạch để đầu tư chiều sâu, hiện đại các cơ sở chế biến, nâng cao hiệu quả chế biến khoáng sản, bảo vệ tài nguyên môi trường; xử lý nghiêm các cơ sở vi phạm về môi trường, lãng phí tài nguyên; chấm dứt tình trạng bán sản phẩm chưa qua chế biến hoặc chế biến thô.

Tùy tình hình thị trường và khả năng thu hút đầu tư để xây dựng các nhà máy chế biến đá hoa ở Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ với công nghệ hiện đại. Tiếp tục phát triển nghề chế tác đá mỹ nghệ sớm hình thành một số làng nghề trên lĩnh vực chế tác đá mỹ nghệ.

Tiếp tục kêu gọi đầu tư xây dựng nhà máy chế biến sợi cách nhiệt từ đá Bazan trong khu công nghiệp Hoàng Mai; nhà máy khai thác chế biến đá Marble xuất khẩu ở Quỳ Hợp với công suất phù hợp.

Công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước: tập trung đẩy nhanh đầu tư các dự án thủy điện để đảm bảo kế hoạch phát điện của các dự án. Tiếp tục làm việc với Trung tương và các nhà đầu tư tiềm năng và hợp tác quốc tế để hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư và triển khai xây dựng thủy điện Mỹ Lý 250 MW, Nậm Mô 95 MW.

Đẩy nhanh tiến độ thành lập và đầu tư phát triển các khu công nghiệp Thọ Lộc, Hoàng Mai, Đông Hồi, Tân Kỳ. Tranh thủ giúp đỡ từ Trung ương và hợp tác quốc tế để hình thành và phát triển nhanh khu công nghệ cao. Đến năm 2015 phấn đấu thu hút khoảng 200 - 250 dự án đầu tư, tạo 35 - 40 ngàn chỗ làm việc theo mục tiêu đã đề ra.

Đầu tư hoàn chỉnh từ 10 - 12 cụm công nghiệp với diện tích 217 ha. Thu hút thêm từ 120 - 150 dự án đầu tư. Tạo việc làm cho 13.000 - 15.000 lao động.

Khôi phục và phát triển nghề và làng nghề. Đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp, xây dựng làng nghề ở các huyện, xã. Trước mắt rà soát để có các giải pháp (về tổ chức sản xuất, quản lý và thị trường tiêu thụ) để nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế từ làng nghề đã công nhận nhất là các làng nghề mây tre đan, chế biến lâm sản, dâu tằm tơ, thêu, v.v... Phấn đấu mỗi năm có thêm 5 đến 10 làng nghề mới.

 

Nguồn: Sở Công Thương Tỉnh Nghệ An