Đặt mục tiêu đến 2030 là tỉnh công nghiệp phát triển theo hướng công nghệ cao, Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Thọ đã ban hành Nghị quyết số 39/2011/NQ-HĐND ngày 12/12/2011 về Quy hoạch phát triển công nghiệp giai đoạn 2011 – 2020, định hướng đến 2030.



Gần 170.000 tỷ đồng cho phát triển công nghiệpTheo Nghị quyết 39, mục tiêu của tỉnh Phú Thọ đến năm 2020 đạt tiêu chí là tỉnh công nghiệp và đến năm 2030 là tỉnh công nghiệp phát triển theo hướng công nghệ cao. Mục tiêu cụ thể giai đoạn 2011-2015, tăng trưởng bình quân đạt khoảng 15%/năm; Đến năm 2015, giá trị gia tăng ngành công nghiệp tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2010; tỷ trọng ngành công nghiệp đạt 35%; tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng đạt khoảng 41,4%. Giai đoạn 2016 – 2020, tăng trưởng bình quân đạt khoảng 13,2%/năm. Đến năm 2020, giá trị gia tăng ngành công nghiệp gấp 3,7 lần so với năm 2010; tỷ trọng ngành công nghiệp đạt khoảng 41%; tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng đạt khoảng 50%. Giai đoạn 2021 – 2030, ngành công nghiệp có mức tăng trưởng khoảng 11 – 12%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2030 gấp 3,2 lần so với năm 2020. Tổng vốn đầu tư cho phát triển công nghiệp giai đoạn này là khoảng 145 - 168 nghìn tỷ đồng.

 

Sẽ phát triển công nghiệp theo vùng lãnh thổ

 

Để đạt mục tiêu này, Phú Thọ đề ra định hướng phát triển công nghiệp phải thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, gắn với các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã quy hoạch, phát triển vùng kinh tế động lực đã được xác định (Việt Trì, Phú Thọ, Phù Ninh, Lâm Thao, Tam Nông) làm nòng cốt, từ đó tạo sức lan tỏa ra các địa phương xung quanh. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp truyền thống, có lợi thế về nguồn nguyên liệu, nguồn nhân lực, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và thế giới. Tăng cường thu hút đầu tư và tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp có công nghệ và hiệu quả cao, các ngành công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp thân thiện môi trường. Ưu tiên đầu tư phát triển các cơ sở công nghiệp ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng kinh tế - xã hội khó khăn, nhất là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu tại chỗ. Nghị quyết cũng đề ra định hướng phát triển theo vùng lãnh thổ gồm: Vùng “Công nghiệp động lực” gồm thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ và các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Tam Nông. Theo đó, các ngành dệt may - da giày, ngành chế biến giấy, nhựa - hóa chất… hạn chế đầu tư và chuyển dịch dần ra các địa phương xung quanh. Thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ ưu tiên thu hút đầu tư có chọn lọc, lựa chọn những ngành có công nghệ sạch, có giá trị gia tăng cao. Di dời các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm ra ngoài thành phố Việt Trì. Các địa phương của vùng sẽ khuyến khích phát triển thêm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, làng nghề; tạo việc làm, tăng thêm thu nhập cho dân cư và lao động trong vùng như: Chế biến rau quả, chế biến chè, nón lá, đúc đồng phục vụ du lịch...

 

Vùng “Công nghiệp Tây Bắc” gồm các huyện: Đoan Hùng, Hạ Hòa, Thanh Ba và Cẩm Khê sẽ tiếp tục phát triển các ngành công nghiệp có thế mạnh và thị trường lớn như xi măng, khai thác khoáng sản, chế biến thực phẩm, đồ uống, chế biến chè, thức ăn gia súc, vật liệu xây dựng, chế biến gỗ...

 

Vùng “Công nghiệp Tây Nam” gồm các huyện: Yên Lập, Thanh Sơn, Thanh Thủy và Tân Sơn gắn với hình thành các vùng trồng cây công nghiệp tập trung, phát triển lâm nghiệp, khai thác lâm đặc sản và chăn nuôi đại gia súc tạo nguồn nguyên liệu cho các nhà máy chế biến. Các ngành, sản phẩm công nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu công nghiệp của vùng là: Khai thác và chế biến khoáng sản; Chế biến nông lâm sản, thực phẩm; sản xuất vật liệu xây dựng (gạch xây dựng các loại), cơ khí.

 

Ngoài ra, việc phát triển công nghiệp còn chú trọng đến các nhóm ngành như: Nhóm ngành công nghiệp truyền thống (công nghiệp chế biến gỗ, giấy, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt may, da giày); Nhóm ngành công nghiệp mới (Công nghiệp điện tử, cơ khí, chế tạo máy, sản xuất kim loại và tân dược); Nhóm ngành công nghiệp khác (khai thác và chế biến khoáng sản, chế biến nông sản, thực phẩm, đồ uống, sản xuất và phân phối điện). Mỗi nhóm ngành đều có định hướng giải pháp phát triển phù hợp với điều kiện thực tế địa phương trên cơ sở đổi mới công nghệ các cơ sở công nghiệp hiện có nhằm nâng cao năng suất lao động và tạo ra các sản phẩm theo hướng có hàm lượng công nghệ cao. Sắp xếp và tổ chức lại sản xuất các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường theo hướng xử lý triệt để các vấn đề môi trường, đảm bảo phát triển sản xuất ổn định, bền vững và thân thiện với môi trường.

 

Giải pháp cụ thể

 

Để đạt được các mục tiêu đề ra, HĐND Tỉnh đã đề ra năm nhóm giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất: Điều chỉnh, bổ sung chính sách hỗ trợ đầu tư vào hạ tầng các khu, cụm công nghiệp có tính khả thi và phù hợp với khả năng của Tỉnh; Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tạo sự bình đẳng, không phân biệt giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Chọn lọc và ưu tiên đầu tư các dự án hạ tầng quan trọng. Khai thác các nguồn vốn đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, cảng sông và các cụm công nghiệp đã được quy hoạch. Chú trọng dành quỹ đất sạch, có cơ chế chính sách hỗ trợ tích cực, hiệu quả để xây dựng nhà ở và các công trình văn hóa - xã hội cho lao động làm việc trong các khu công nghiệp…

Thứ hai: Chú trọng đào tạo ngành nghề hóa chất, cơ khí, chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt may, điện, quản lý cho doanh nghiệp trong khu, cụm công nghiệp. Đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng đóng trên địa bàn Tỉnh; Nâng cấp và phát triển các trung tâm hướng nghiệp, dạy nghề; mở rộng mạng lưới và xã hội hóa việc đào tạo nghề; tăng cường liên kết đào tạo nghề với các cơ sở đào tạo khác trên địa bàn cả nước. Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến việc làm.

Thứ ba: Đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các nguồn vốn từ các chương trình dự án. Tăng cường huy động các nguồn vốn thông qua các hình thức thu hút đầu tư trực tiếp, hợp tác, liên kết, liên doanh của các tập đoàn, các công ty lớn. Sử dụng các công cụ huy động vốn mới trên thị trường tài chính, thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ như phát hành trái phiếu, tín phiếu với sự đảm bảo bằng ngân sách của tỉnh, của Chính phủ cho các công trình trọng điểm trên địa bàn. Áp dụng việc đầu tư trực tiếp từ các tổ chức ngân hàng, bảo hiểm... vào công nghiệp như một thành viên góp vốn. Sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả thông qua việc tập trung đầu tư có trọng điểm những dự án lớn để nhanh chóng đưa vào hoạt động.

Thứ tư: Tăng cường kiểm tra, có biện pháp hướng dẫn và xử lý chất thải, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất đối với các doanh nghiệp. Nghiên cứu cơ chế, chính sách đầu tư xây dựng các công trình xử lý ô nhiễm môi trường; không cấp phép đầu tư đối với các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng và nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và người lao động. Xây dựng chính sách khuyến khích các doanh nghiệp công nghiệp thay thế công nghệ hoặc đầu tư sử dụng công nghệ cao thân thiện với môi trường… Chú trọng xây dựng và hoàn thiện, đồng bộ hóa các quy hoạch phát triển từng ngành kinh tế để thống nhất các chủ trương, định hướng phát triển. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về công nghiệp trên địa bàn. Kiện toàn tổ chức đáp ứng nhu cầu quản lý nhà nước về công nghiệp, đặc biệt trong công tác đầu tư, thị trường, quản lý các khu, cụm công nghiệp.

Thứ năm: Tăng cường hội nhập kinh tế, hợp tác đầu tư; Đẩy mạnh và đa dạng hóa các hoạt động xúc tiến thương mại của Tỉnh. Hỗ trợ các hoạt động khuyến khích xuất khẩu và xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp công nghiệp; cung cấp thông tin thị trường thường xuyên và đầy đủ cho doanh nghiệp. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu và các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực tư vấn về tiếp thị, nghiên cứu thị trường, xúc tiến mậu dịch; Tăng cường hợp tác khoa học công nghệ với các địa phương trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh thuộc địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nhằm đẩy mạnh hợp tác, liên kết và trao đổi bổ sung hàng hóa để phát triển.

 

Minh Ngọc