
Làm chuyển biến nhận thức về phát triển công nghiệp - TTCN trên địa bàn
Một trong những hiệu quả lớn nhất của hoạt động khuyến công ở Bắc Ninh 5 năm qua là đã góp phần làm chuyển biến nhận thức về nhiệm vụ phát triển công nghiệp - TTCN và ngành nghề nông thôn trên địa bàn của các cán bộ địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ sở sản xuất kinh doanh và người lao động; Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, tăng giá trị sản xuất công nghiệp địa phương; Khôi phục nghề truyền thống, phát triển nghề và tạo dựng một số nghề mới, nhất là ở vùng thuần nông và những nơi diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, đồng thời tạo điều kiện cho một số làng nghề phát triển, sản phẩm có khả năng cạnh tranh trong và ngoài nước; Góp phần hình thành và thúc đẩy các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã... ở các vùng nông thôn, làng nghề phát triển sản xuất công nghiệp- TTCN; Nâng cao kiến thức quản lý Nhà nước về công nghiệp - TTCN cho cán bộ quản lý, trang bị kiến thức và kỹ năng quản trị doanh nghiệp cho các chủ cơ sở công nghiệp nông thôn.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Sở Công Thương Bắc Ninh, hoạt động khuyến công vẫn còn một số hạn chế như: Quy trình lập, thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện dự án chưa thật sự khoa học, nội dung hoạt động khuyến công chưa đa dạng. Công tác đào tạo, truyền nghề bộc lộ nhiều hạn chế: đầu tư ít, thời gian học ngắn, tay nghề của người lao động chưa cao dẫn đến một số sản phẩm chưa đáp ứng yêu cầu làm hàng xuất khẩu, ngành nghề đào tạo còn đơn giản, thu nhập người lao động ở một số nghề còn ở mức thấp. Nhận thức của của một số ít cấp uỷ đảng, chính quyền cơ sở, đặc biệt là người dân chưa đầy đủ về việc học nghề, truyền nghề, nhân cấy nghề mới vào địa phương, chỉ muốn những nghề được truyền mang lại lợi ích kinh tế nhanh chóng, từ đó sinh tư tưởng nóng vội với những mưu sinh trước mắt, nên sau khi triển khai nghề mới, một số đã không tiếp tục gắn bó với nghề. Bộ máy làm công tác khuyến công vừa thiếu, vừa yếu, chưa phát huy được lợi thế địa phương cũng như chưa truyền bá được thông tin khoa học công nghệ tiên tiến về các địa phương.
Bốn giải pháp hoạt động khuyến công
Với mục tiêu phấn đấu đến 2010 có thêm 8 làng nghề mới; đến 2015 ít nhất mỗi xã ở khu vực nông thôn có một làng nghề sản xuất TTCN, dịch vụ, đưa tổng số làng nghề trên địa bàn tỉnh lên 108 làng nghề, Bắc Ninh dự kiến hàng năm giải quyết việc làm cho 22.000- 24.000 người, trong đó ở khu vực nông thôn là 15.000- 18.000 người, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên trên 85%, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống dưới 2,5%. Từng bước nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, đến năm 2010 là 40% và 2015 trên 50%. Để khắc phục hạn chế, nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến công giai đoạn tới, Trung tâm khuyến công Bắc Ninh đề ra 4 giải pháp hoạt động khuyến công như sau:
Giải pháp về đẩy mạnh công tác tuyên truyền.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về CNH-HĐH. Các chính sách ưu đãi khuyến khích phát triển công nghiệp- TTCN, các chương trình phát triển nguồn nhân lưc và giải quyết việc làm của địa phương. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong nhân dân, nhất là các Luật và văn bản dưới Luật của Luật đất đai, Luật Xây dựng, Luật doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật đầu tư...
Giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo và chỉ đạo.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể về công tác khuyến công nhằm tìm ra các chương trình trọng điểm, đi đôi với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý; chủ động đề xuất biện pháp trong tổ chức thực hiện các chương trình khuyến công của tỉnh, của huyện, thành phố. Tăng cường sự phối, kết hợp chặt chẽ giữa các ngành với các địa phương từ huyện đến xã, thôn trong triển khai thực hiện các đề án khuyến công, đào tạo nghề, giải quyết việc làm... Trước mắt mỗi thôn, xã phải chủ động điều tra và phân loại số lao động dôi dư, thiếu việc làm hiện có theo từng độ tuổi, xác định rõ số lao động không còn cơ hội đưa đi đào tạo dài hạn tập trung ở các trường nghề, từ đó lập kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo ngắn hạn cho đối tượng này sao cho sát với thực tế của từng địa phương. Để thực hiện mục tiêu xoá xã trắng nghề vào năm 2015, cần triển khai ngay việc khảo sát thực trạng của 73 xã chưa có nghề phi nông nghiệp( hoặc có nhưng còn nhỏ lẻ, manh mún), từ đó xây dựng đề án, dự án phát triển nghề cho từng thôn, xã với những chương trình, kế hoạch cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa phương và phong tục tập quán của từng làng, xã, để ngành nghề mới được người dân tiếp thu nhanh chóng. Định kỳ hàng năm tỉnh tổ chức sơ kết, đánh giá rút kinh nghiệm công tác khuyến công, trên cơ sở đó đề xuất đổi mới cơ chế hoạt động và các chương trình cụ thể cho năm sau.
Giải pháp về cơ chế chính sách.
Từng bước thực hiện xã hội hoá các hoạt động khuyến công, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể xã hôi, các tổ chức hiệp hội ngành nghề, các doanh nghiệp lớn trên địa bàn tham gia vào các chương trình, dự án khuyến công. Tạo cơ chế, điều kiện để thu hút được nhiều nguồn kinh phí khuyến công ngoài nguồn ngân sách tỉnh. ây dựng chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động tư vấn giúp đỡ cơ sở công nghiệp nông thôn theo quy định của pháp luật để thực hiện các nội dung của hoạt động khuyến công, có hình thức khen thưởng xứng đáng đối với các tổ chức, cá nhân có công lao trong việc đào tạo, phát triển ngành nghề vào khu vực nông thôn. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng quy hoạch chi tiết phát triển làng nghề và các cụm, điểm công nghiệp… tạo điều kiện cơ sở vật chất hạ tầng cho các chương trình khuyến công đi đúng hướng, có trọng tâm, trọng điểm.
Giải pháp về tăng cường năng lực của các tổ chức khuyến công.
Ngoài việc tích cực tranh thủ vốn hỗ trợ từ Trung ương, hàng năm tỉnh cân đối ngân sách tăng vốn sự nghiệp công nghiệp cho hoạt động khuyến công. Tăng cường nguồn lực về kinh phí, cán bộ, biên chế, vốn đầu tư cho các đơn vị sự nghiệp làm nhiệm vụ khuyến công, các trường dạy nghề trong tỉnh cũng như các chương trình đào tạo nghề, chuyển đổi việc làm, truyền nghề, nhân cấy nghề mới cho người lao động ở khu vực nông thôn, ở những nơi nơi giành đất cho phát triển các KCN, khu đô thị đặc biệt là các đối tượng lao động là phụ nữ và lao động trên 35 tuổi chưa qua bồi dưỡng, đào tạo nghề không thuộc diện tuyển dụng của các doanh nghiệp. Đổi mới trong tổ chức thực hiện công tác khuyến công về các mặt: lựa chọn dự án, xây dựng dự án khuyến công, kiểm tra giám sát…Trong khi nguồn kinh phí khuyến công còn có hạn, cần bố trí hợp lý kinh phí nhằm phát triển nghề cho những xã nghành nghề còn manh mún, mặt khác chú ý tập trung đầu tư vào các địa phương đã và đang phát huy tốt hiệu quả kinh phí khuyến công ở những năm trước để sớm trở thành làng có nghề, tiến tới hình thành làng nghề mới.
Để tạo điều kiện cho các giải pháp hoạt động có hiệu quả, Trung tâm khuyến công kiến nghị Chính phủ bổ sung Nghị định 134/2004/CP theo hướng tăng một số nội dung của hoạt động khuyến công, như: hỗ trợ kinh phí xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề; hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng làng nghề...Mở rộng phạm vi và đối tượng áp dụng Nghị định 134/2004/NĐ-CP cho các tổ chức chính trị- xã hội, đoàn thể được tham gia hoạt động dịch vụ khuyến công; Bổ sung thêm nội dung hỗ trợ kinh phí xây dựng cụm công nghiệp, làng nghề (kinh phí lập quy hoạch chi tiết, xây dựng hạ tầng kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực...) không phân biệt theo địa bàn. Đồng thời, các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến công tác khuyến công cần có ý kiến tham gia của các địa phương trước khi ban hành, cho phù hợp với điệu kiện thực tế từng địa phương.
Hải Đường