Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có 62 làng nghề, tập trung tại 35/108 xã. Số lao động chưa có nghề hoặc có nghề nhưng chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ lệ lớn.


Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, công tác khuyến công được coi là mũi nhọn quan trọng trong sự phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giải quyết việc làm tại chỗ ở khu vực nông thôn. Trong đó, lĩnh vực đào tạo và phát triển nghề được đặt lên hàng đầu.


Gần 6.500 lao động được đào tạo nghề


Theo báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động khuyến công của Sở công Thương Bắc Ninh, 5 năm qua, đã có gần 6.500 lao động được đào tạo nghề. Trong đó, từ nguồn kinh phí khuyến công địa phương, Trung tâm khuyến công và TVPTCN Bắc Ninh đã phối hợp với phòng Kinh tế, phòng Công thương, Trung tâm dạy nghề các huyện, thành phố, UBND các xã, các doanh nghiệp, HTX đào tạo được 3.270 lao động với tổng kinh phí 3,049 tỷ đồng với các nghề như: Gốm sứ, mây tre đan, may công nghiệp, điện ôtô, xe máy, cơ khí, thêu tranh....... Với phương thức gắn nơi đào tạo nghề với doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, địa phương lo công tác chiêu sinh học viên, tổ chức khóa học, các công ty, doanh nghiệp là người đào tạo nghề và bao tiêu sản phẩm, sau khóa học 70% số học viên được tuyển vào làm việc tại công ty, doanh nghiệp, số còn lại làm việc tại hộ gia đình. Mức thu nhập bình quân từ 800.000đ - 1.500.000 đồng/người/tháng. Nhìn chung các dự án đã đem lại hiệu quả cao, góp phần tạo thu nhập khá ổn định. Nguồn kinh phí khuyến công quốc gia cũng góp phần đào tạo nghề cho 3.150 lao động với các nghề như: thêu tranh, cơ khí, gốm sứ, điện ôtô, xe máy, may công nghiệp, may màn xuất khẩu ... Sau khi đào tạo nghề các học viên đã được các cơ sở sản xuất tiếp nhận vào làm việc và có mức thu nhập bình quân từ 1.200.000đ - 2.000.000 đồng/người/tháng. Với phương thức gắn công tác đào tạo với đơn vị dậy nghề và bao tiêu sản phẩm, sau khi học xong các sản phẩm làm ra được các công ty, doanh nghiệp, HTX chịu trách nhiệm bao tiêu sản phẩm
Theo đánh giá chung, công tác đào tạo nghề đã góp phần khôi phục nghề truyền thống, phát triển nghề và tạo dựng một số nghề mới, nhất là ở vùng thuần nông và những nơi diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, đồng thời tạo điều kiện cho một số làng nghề phát triển, sản phẩm có khả năng cạnh tranh trong và ngoài nước. Góp phần hình thành và thúc đẩy các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã... ở các vùng nông thôn, làng nghề phát triển sản xuất công nghiệp- TTCN;


Khó khăn từ nhiều phía


Tuy nhiên, do vốn đầu tư ít, thời gian học ngắn, tay nghề của người lao động chưa cao dẫn đến một số sản phẩm chưa đáp ứng yêu cầu làm hàng xuất khẩu, ngành nghề đào tạo còn đơn giản, thu nhập người lao động ở một số nghề còn ở mức thấp. Nhận thức của của một số ít cấp uỷ đảng, chính quyền cơ sở, đặc biệt là người dân chưa đầy đủ về việc học nghề, truyền nghề, nhân cấy nghề mới vào địa phương, chỉ muốn những nghề được truyền mang lại lợi ích kinh tế nhanh chóng, từ đó sinh tư tưởng nóng vội với những mưu sinh trước mắt, nên sau khi triển khai nghề mới, một số đã không tiếp tục gắn bó với nghề. Bộ máy làm công tác khuyến công còn mới mẻ, số lượng ít, kinh nghiệm chưa nhiều, nên chưa phát huy được những lợi thế mà địa phương có, chưa truyền bá được nhiều thông tin về công nghệ, khoa học kỹ thuật, các nghề mới về địa phương. Việc du nhập nghề mới, phát triển làng nghề, đặc biệt là gia công hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu đòi hỏi phải có thời gian nhiều năm và cần có nhân tố con người yêu nghề, gắn bó với nghề, có ý chí trong sản xuất - kinh doanh, sau đào tạo có nơi có việc làm nhưng thu nhập thấp (do tay nghề, do bị ép giá qua nhiều cấp trung gian…) nên không thu hút được lao động sau đào tạo. Việc gắn kết giữa cơ sở mới được nhân cấy nghề với nơi tiêu thụ sản phẩm còn thiếu bền vững, thiếu tính pháp lý trong ràng buộc trách nhiệm của mỗi bên chưa cao, mặc dù đã được quan tâm ngay từ khi lên kế họach đào tạo. Công tác xúc tiến thương mại sau đào tạo chưa được quan tâm thoả đáng v.v.. tất cả điều đó đã làm hạn chế đến việc phát triển mở rộng nghề sau này. Bên cạnh đó, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, nghệ nhân, cá nhân có công tìm kiếm, đào tạo lao động, du nhập nghề mới về các địa phương trong tỉnh chưa được cụ thể hóa một cách rõ ràng, lên chưa tạo được động lực cho họ tham gia một cách tích cực vào lĩnh vực này.


Phấn đấu xoá bỏ các xã trắng nghề


Với mục tiêu phấn đấu đến 2010 có thêm 8 làng nghề mới; đến 2015 ít nhất mỗi xã ở khu vực nông thôn có một làng nghề sản xuất TTCN, dịch vụ, đưa tổng số làng nghề trên địa bàn tỉnh lên 108 làng nghề, Bắc Ninh dự kiến hàng năm giải quyết việc làm cho 22.000- 24.000 người, trong đó ở khu vực nông thôn là 15.000- 18.000 người, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên trên 85%, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống dưới 2,5%. Từng bước nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, đến năm 2010 là 40% và 2015 trên 50%. Trong những năm tới Bắc Ninh sẽ tiếp tục mở rộng việc đào tạo, nhân cấy nghề mới vào vùng thuần nông, ưu tiên những vùng giành nhiều diện tích đất cho phát triển các khu, cụm công nghiệp, đô thị; Củng cố, tạo cho các làng có điều kiện phát triển, xây dựng thành làng nghề mới, tiến tới xoá bỏ các xã trắng không có nghề sản xuất, dịch vụ phi nông nghiệp; Từng bước hướng các hoạt động khuyến công vào hỗ trợ đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị, nâng cao hiệu quả, giảm chi phí trung gian trong sản xuất công nghiệp-TTCN, xây dựng thương hiệu sản phẩm. Xây dựng và hình thành mô hình làng nghề tiểu thủ công nghiệp kết hợp với làng văn hoá du lịch ở những địa phương có các nghề thủ công, mỹ nghệ như gốm, đồ gỗ, đồ đồng, tranh, tre trúc, thêu ren...


Để thực hiện mục tiêu xoá xã trắng nghề vào năm 2015, Bắc Ninh đang tích cực triển khai khảo sát thực trạng của 73 xã chưa có nghề phi nông nghiệp (hoặc có nhưng còn nhỏ lẻ, manh mún), từ đó xây dựng đề án, dự án phát triển nghề cho từng thôn, xã với những chương trình, kế hoạch cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa phương và phong tục tập quán của từng làng, xã, để ngành nghề mới được người dân tiếp thu nhanh chóng. Từng bước thực hiện xã hội hoá các hoạt động khuyến công, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể xã hôi, các tổ chức hiệp hội ngành nghề, các doanh nghiệp lớn trên địa bàn tham gia vào các chương trình, dự án khuyến công. Tạo cơ chế, điều kiện để thu hút được nhiều nguồn kinh phí khuyến công ngoài nguồn ngân sách tỉnh. Xây dựng chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động tư vấn giúp đỡ cơ sở công nghiệp nông thôn theo quy định của pháp luật để thực hiện các nội dung của hoạt động khuyến công, có hình thức khen thưởng xứng đáng đối với các tổ chức, cá nhân có công lao trong việc đào tạo, phát triển ngành nghề vào khu vực nông thôn. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng quy hoạch chi tiết phát triển làng nghề và các cụm, điểm công nghiệp… tạo điều kiện cơ sở vật chất hạ tầng cho các chương trình khuyến công đi đúng hướng, có trọng tâm, trọng điểm. Tăng cường nguồn lực về kinh phí, cán bộ, biên chế, vốn đầu tư cho các đơn vị sự nghiệp làm nhiệm vụ khuyến công, các trường dạy nghề trong tỉnh cũng như các chương trình đào tạo nghề, chuyển đổi việc làm, truyền nghề, nhân cấy nghề mới cho người lao động ở khu vực nông thôn, ở những nơi nơi giành đất cho phát triển các KCN, khu đô thị đặc biệt là các đối tượng lao động là phụ nữ và lao động trên 35 tuổi chưa qua bồi dưỡng, đào tạo nghề không thuộc diện tuyển dụng của các doanh nghiệp. Đổi mới trong tổ chức thực hiện công tác khuyến công về các mặt: lựa chọn dự án, xây dựng dự án khuyến công, kiểm tra giám sát…Trong khi nguồn kinh phí khuyến công còn có hạn, sẽ bố trí hợp lý kinh phí nhằm phát triển nghề cho những xã nghành nghề còn manh mún, mặt khác chú ý tập trung đầu tư vào các địa phương đã và đang phát huy tốt hiệu quả kinh phí khuyến công ở những năm trước để sớm trở thành làng có nghề, tiến tới hình thành làng nghề mới.


CTV,Khánh Chi