Ngày 17/4, Chương trình Tiêu điểm Công Thương số 3 của Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương với chủ đề: “Diễn biến và các nhiệm vụ trọng tâm đẩy mạnh tiêu thụ xuất khẩu nông thủy sản” đã được tổ chức với sự tham dự của các vị khách mời: Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh; Ông Phan Xuân Quế, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty lương thực Miền Bắc; Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu Thủy sản Việt Nam; Ông Phan Hữu Đễ, nguyên Tổng thư ký Hiệp Hội Cà phê - Cao cao Việt Nam.


Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã đi được 1/4 chặng đường kế hoạch năm 2015 với những kết quả nhất định. Tuy nhiên nếu xét riêng về kim ngạch mang lại của từng ngành thì chúng ta có thể thấy những mặt hàng chính đóng góp chủ yếu trong kim ngạch xuất khẩu nông thủy sản đều giảm mạnh so với cùng kỳ của các năm trước. Cụ thể như mặt hàng thủy sản đã giảm 14,8%; mặt hàng cà phê giảm 36,7% và mặt hàng gạo giảm 22,9%. Vậy tính đến thời điểm này, sự sụt giảm trên có phải là điều đáng lo ngại? Những nguyên nhân nào dẫn đến sự sụt giảm trên? Để thúc đẩy xuất khẩu nông, thủy sản Việt Nam trong năm 2015 và trong những năm tiếp theo, chúng ta cần có những giải pháp như thế nào? Đây cũng là những nội dung chính được đề cập trong chương trình Tiêu điểm Công Thương số 3 với chủ đề: “Diễn biến và các nhiệm vụ trọng tâm đẩy mạnh tiêu thụ xuất khẩu nông thủy sản”.

Nhiều mặt hàng thế mạnh đang bị cạnh tranh gay gắt trên thị trường thế giới

Thưa Thứ trưởng Trần Tuấn Anh, theo như chúng tôi được biết, kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, thủy sản 3 tháng đầu năm 2015 giảm hơn 10% so với cùng kỳ, trong khi kể từ năm 2011 đến năm 2014 kim ngạch quí I đều tăng trung bình 10% so với cùng kỳ. Vậy Thứ trưởng có thể phân tích rõ hơn về nguyên nhân của tình trạng này, những mặt hàng nào đã tác động trực tiếp dẫn đến sự sụt giảm trên?

Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh: Trước tiên qua 3 tháng của quý I năm 2015, theo con số thống kê cho thấy kim ngạch xuất khẩu (KNXK) nông sản của bị sụt giảm đáng kể, giảm hơn 10 % so với những cùng kỳ năm trước. Đây được đánh giá là điều bất thường so với những năm trước vốn có mức tăng trưởng cao trong quý I. Tuy nhiên, nếu đánh giá một cách cụ thể về sự sụt giảm trong quý I năm 2015, có mấy nguyên nhân tương đối rõ nét và cơ bản. Điều này, đã được phân tích và đánh giá nhiều lần tại các diễn đàn cũng như trong các báo cáo của Chính phủ và các Bộ, ngành.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh

Thứ nhất, có thể nói quý I/2015 biến động của thị trường thế giới có những nét tương đối đặc biệt. Giá cả của mặt hàng nông sản, thủy sản có sự sụt giảm mà cụ thể chúng ta chứng kiến giá của mặt hàng gạo, mặt hàng cao su, phi lê cá thịt trắng, v.v… đều có những sụt giảm đáng kể. Đặc biệt trong đó là mặt hàng gạo có một sự sụt giảm chung trên thị trường thế giới. Không chỉ riêng gạo của Việt Nam mà của cả những nước xuất khẩu khác như Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan đều trong trạng thái sụt giá liên tục. Sự sụt giảm này được đánh giá ở nhiều nguyên nhân. Nhưng đầu tiên chúng ta phải nói nguyên nhân cân đối cung cầu trên thế giới có những diễn biến tác động vào giá.

Thứ hai là trong quý I năm 2015 tình hình của thế giới vẫn còn có những bất ổn nhất định trong các khu vực khác nhau cả ở khía cạnh về chính trị, tôn giáo, khủng bố… cũng đã tác động ít nhiều đến nhu cầu của thế giới. Sự phục hồi chậm, chưa thực sự bền vững của kinh tế thế giới cũng dẫn đến tác động và nhu cầu chung của thế giới ảnh hưởng đến xuất khẩu của các nước nói chung.

Thứ ba là đối với riêng một số mặt hàng nông thủy sản của Việt Nam, trong năm 2015 và những năm trước đây, đặc biệt năm 2014, năng lực sản xuất của chúng ta có thể nói đã đạt đến mức độ rất cao, tiêu biểu như mặt hàng gạo, cà phê, cao su, thủy sản, v.v… Sự gia tăng sản lượng của Việt Nam trong những năm gần đây đã gần đến ngưỡng của cả sản xuất và năng lực xuất khẩu. Điều đó cũng dẫn đến những vấn đề đặt ra cho chúng ta trong công tác xuất khẩu.

Nguyên nhân thứ tư mà chúng tôi cho rằng cũng là yếu tố tác động đến việc sụt giảm tăng trưởng của mặt hàng nông sản, thủy sản và của một số mặt hàng khác trong lĩnh vực kinh tế là do mức độ cạnh tranh rất gay gắt trên thị trường thế giới đối với các mặt hàng này. Tất nhiên hiện vẫn đang nằm chung trong cân đối cung cầu của thế giới. Tuy nhiên thì rõ ràng có thể nói cạnh tranh diễn ra gay gắt trong một số mặt hàng được cho là rất nhạy cảm và quan trọng của Việt Nam như gạo, cao su, cà phê, v.v…

Nguyên nhân thứ năm mà chúng ta thấy rất rõ nét là trong thị trường thế giới thì các nước nhập khẩu các mặt hàng mà Việt Nam đang xuất khẩu như nông sản, thủy sản… có xu thế bắt đầu điều chỉnh các chính sách điều hành, trong đó có nhập khẩu theo hướng một số mặt hàng họ phấn đấu tăng cường hơn năng lực sản xuất để vươn tới giảm thiểu bớt nhu cầu nhập khẩu. Ví dụ như mặt hàng gạo, Việt Nam chứng kiến các quốc gia nhập khẩu chính như Indonexia, Philippin cũng đều rất nỗ lực trong việc tăng cường năng lực sản xuất lương thực để có thể cân đối cung - cầu. Các mặt hàng như thủy sản cũng vướng vào một số các chính sách bảo hộ mà dưới hình thức mới, những rào cản về thương mại, rào cản kỹ thuật tại các quốc gia ở Châu Âu, Mỹ, v.v… Không chỉ thông qua các rào cản kỹ thuật, mà còn cả các biện pháp trong các tranh chấp thương mại, ví dụ như các cuộc điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp, v.v… Những hoạt động đó đã gây tác động tương đối nhiều không chỉ đến các mặt hàng xuất khẩu mà cả giá trị của KNXK.

Một nguyên nhân nữa mà có lẽ đang được định hình ngày càng rõ dần, đó là biến động trên thị trường thế giới với việc đồng đô la càng ngày càng lên giá và khẳng định sức mạnh đã tác động đến nhu cầu thị trường ở những thị trường rất quan trọng đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, như thị trường Châu Âu đối với các mặt hàng về thủy sản; thị trường Nhật Bản đối với các mặt hàng về thủy sản, trái cây, kể cả mặt hàng về công nghiệp, tiêu dùng, v.v…

Nhưng về cơ bản lâu dài chúng tôi cho rằng, còn có một số vấn đề tồn tại và cũng sẽ tác động đến xuất khẩu nếu chúng ta không có biện pháp thì sẽ tiếp tục tác động đến năng lực cạnh tranh của chúng ta và ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng trong xuất khẩu. Đầu tiên chính là năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt thì năng lực cạnh tranh của chúng ta mặc dù đã khẳng định vị thế của mình trong một số các mặt hàng, nhưng phải nhìn nhận khách quan, thực tế, năng lực cạnh tranh của sản phẩm chậm được cải thiện. Ví dụ các mặt hàng nông sản, thủy sản… dù đã được xây dựng bước đầu những giá trị thương hiệu nhưng có thể nói là sự bền vững của sản phẩm chưa được đảm bảo. Mà điều này có nhiều nguyên nhân trong đó có vấn đề liên quan đến mô hình tổ chức sản xuất, quy mô của ngành kinh tế đó, liên quan đến năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực về công nghệ, chất lượng sản phẩm, liên quan đến khâu quản trị, trình độ, chất lượng sản phẩm và nguồn nhân lực, liên quan đến khung pháp lý trong tổ chức sản xuất và đặc biệt, vấn đề chúng ta vẫn hay nói đến, đó là các chuỗi giá trị sản phẩm.

Như vậy có thể nói, có rất nhiều nguyên nhân cả khách quan, cả chủ quan, có cả những vấn đề ngắn hạn và dài hạn, nhưng cần phải nhìn nhận thấy rằng, trách nhiệm và yêu cầu đặt ra cho chúng ta đang ngày càng cao yêu cầu phải tổ chức lại không phải chỉ để thúc đẩy xuất khẩu mà vấn đề quan trọng là đảm bảo năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của sản phẩm trong quá trình hội nhập.

Theo như phân tích của Thứ trưởng, gạo, thủy sản và cà phê là những mặt hàng đã có sự sụt giảm mạnh cả về lượng và giá trong thời gian qua. Vậy nguyên nhân cụ thể nào dẫn đến sự sụt giảm trên. Câu hỏi này trước hết xin được hỏi đại diện Tổng công ty Lương thực miền Bắc, một trong những doanh nghiệp xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam.

Ông Phan Xuân Quế, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty lương thực Miền Bắc: Trong những năm vừa qua, chúng ta được biết, do điều kiện thời tiết ổn định, thuận lợi cho nên các mặt hàng nông sản nói chung trong đó có lúa gạo đều được mùa. Trước đây chúng ta chỉ có đối thủ cạnh tranh là các nước xuất khẩu như Thái Lan, Pakistan, Ấn Độ, Mỹ, thì trong thời gian gần đây Myanma và Campuchia đã trở thành những nước đối thủ cạnh tranh trực tiếp với gạo của Việt Nam và cũng đã từng bước chiếm lĩnh thị trường. Đồng thời, các nước nhập khẩu sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, 2009 thì cũng tập trung gia tăng sản xuất trong nước để đảm bảo an ninh lương thực, tránh phụ thuộc vào các nước xuất khẩu, dẫn đến cung - cầu hiện nay của thị trường là do người mua quyết định. Trước đây, trước năm 2010, môi trường kinh doanh lương thực rất thuận lợi, gần như chúng ta có thể quyết định được thị trường, bán cho ai, bán giá nào nhưng hiện nay, người mua hoàn toàn chủ động chi phối thị trường và họ có những chính sách để nhập khẩu với các điều kiện thuận lợi nhất, giá cả hấp dẫn nhất, gia tăng các nguồn cung. Các nước xuất khẩu cạnh tranh quyết liệt, đặc biệt Thái Lan và Ấn Độ với lượng tồn kho lớn như Thái Lan trên 16 triệu tấn, Ấn Độ trên 23 triệu tấn. Hiện nay áp lực giải phóng tồn kho, chính sách giảm giá để dành thị phần được đẩy mạnh. Trước đây, Thái Lan chủ yếu tập trung xuất khẩu các sản phẩm gạo cao cấp, thị phần gạo thấp cấp gần như không quan tâm. Tuy nhiên, trong khoảng 2 năm trở lại đây, Thái Lan bắt đầu gia tăng, chiếm lĩnh thị phần gạo thấp cấp. Chính vì vậy, Việt Nam trong thời gian năm 2014 và quý I/2015 gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm gạo.

Ngoài những yếu tố khách quan thì có thể nhìn thẳng vào thực tiễn cũng có những nguyên nhân thuộc về chủ quan đó là sự yếu kém của chuỗi liên kết các thành phần tham gia từ sản xuất, chế biến, đến tiêu thụ và xuất khẩu. Trong khâu tổ chức sản xuất cũng phải đáp ứng nhu cầu thị trường, trong khâu chế biến các mặt hàng của chúng ta cũng chưa được phong phú, đa dạng, phù hợp với thị hiếu của một số nước có nhu cầu chất lượng cao và khâu tiêu thụ với nguồn lực còn hạn chế của các doanh nghiệp xuất khẩu. Đây là một số nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chính dẫn đến sự hạn chế và ảnh hưởng đến tốc độ cũng như sản lượng xuất khẩu gạo trong quý I/2015.

Còn về phía Hiệp hội chế biến và xuất khẩu Thủy sản Việt Nam, trước thống kê tổng xuất khẩu thủy sản quý I năm nay giảm 23% so với quý I/2014. Ông có thể cho biết vì sao xuất thủy sản quý 1 lại có tình trạng chững lại so với năm trước như vậy?

Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu Thủy sản Việt Nam: Về xuất khẩu thủy sản quý I/2015 thì chúng tôi cũng đã rà soát thì thấy rõ rằng, đúng là trong vòng 5 năm qua thì sự giảm sút quý I/2015 có một sự giảm sâu hơn. Chúng tôi cũng nhìn nhận một cách khách quan về vấn đề này thì thấy rõ nó giảm ở 3 thị trường chính và giảm ở 3 mặt hàng chính của Việt Nam mới kéo theo tình trạng giảm sâu như vậy. Nhìn một cách toàn ngành thì chúng tôi thấy rằng, có 3 nguyên nhân chính có thể được mổ xẻ để tìm ra được giải pháp hoặc là các biện pháp nào đó trong thời gian tới.

Trước hết, nhu cầu nhập khẩu từ các khu vực thị trường tiêu thụ lớn các sản phẩm như: cá ngừ, tôm, cá tra của chúng ta là thị trường Châu Âu và kể cả thị trường Nhật Bản đã kéo theo nhu cầu nhập khẩu từ các nước nói chung chứ không riêng từ Việt Nam đã bị hạn chế lại.
Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu Thủy sản Việt Nam

Thứ hai, các nước đang cạnh tranh xuất khẩu với Việt Nam thì họ có một xu thế thả nổi đồng tiền của mình hơn, trong khi Việt Nam với chính sách cân đối vĩ mô vẫn phải có những kiểm soát tỉ giá giữa đồng đô la và đồng Việt Nam. Đó cũng là bất lợi một phần đối với các doanh nghiệp (DN) Việt Nam khi xuất vào thị trường Châu Âu cũng như thị trường Nhật Bản. Các DN trong thời gian vừa qua cũng đã phản ánh rõ vì nhìn thấy rõ giá trị của đồng EUR đã giảm sút.

Thêm nữa, nguyên nhân tác động kéo giảm xuất khẩu mặt hàng lớn nhất của chúng ta là mặt hàng tôm với trị giá đang là khoảng 4 tỷ USD/năm, đó là trong thời gian vừa qua và cũng có thể sang tháng sau, tức tháng 5, là vào mùa vụ tôm chính của Ấn Độ. Mà hiện nay Ấn Độ có một năng lực sản xuất nguyên liệu tôm khá mạnh. Cũng thông qua khảo sát, chúng tôi xem xét giá thành tôm của Ấn Độ thấp hơn chúng ta. Bởi vậy về phương diện nào đó với thị trường, Ấn Độ đang cạnh tranh và chiếm các ưu thế đã khiến cho kim ngạch và thị phần của chúng ta tại thị trường chính của Việt Nam là Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản… bị giảm, riêng đối với mặt hàng tôm thậm chí là 40-60%, kéo tổng riêng trong cả quý 1 vừa qua mặt hàng tôm đã giảm đến 30%. Đây là điều mà tôi muốn phân tích lại để cho thấy có yếu tố cạnh tranh từ bên ngoài, từ đó để chúng ta có thể đặt ra những giải pháp trong thời gian tới.

Nguyên nhân thứ ba, đó là yếu tố cung – cầu, mà cụ thể ở đây là với những thị trường lớn chúng ta đang đề cập đến như Châu Âu và Mỹ, khi mà nhu cầu mua hàng sau dịp lễ Tết của họ chưa phục hồi. Và chúng tôi cũng xem xét thêm một số yếu tố như tác động, áp lực của kết quả các vụ việc chống bán phá giá tại thị trường lớn nhất của chúng ta là thị trường Mỹ. Vào cuối tháng 8/2014 kết quả cuối cùng của lần rà soát lần thứ tám đối với lại mặt hàng tôm khá lạc quan. Vừa rồi là tháng 3 đã công bố là kết quả sơ bộ của lần rà soát thứ chín, nhưng chúng ta phải chờ đến kết quả công bố cuối cùng mới có hiệu lực. Bởi vậy, quý I rõ ràng là áp lực của thuế chống bán phá giá vẫn còn đang đè nặng. Đó là một số nguyên nhân mà chúng tôi phản ánh theo khía cạnh cung - cầu tác động đến sản xuất trong nước, tác động đến những nhu cầu mua hàng, là nguyên nhân kéo sụt giảm về giá trị xuất khẩu của chúng ta về mặt hàng thủy sản.

Thưa Ông Phan Hữu Đễ, quí I năm 2015 cà phê là mặt hàng có mức giảm kim ngạch sâu nhất trong nhóm nông thủy sản, ông có thể chia sẻ nhanh về những khó khăn mà ngành cà phê đang gặp phải hiện nay?

Ông Phan Hữu Đễ, nguyên Tổng thư ký Hiệp Hội Cà phê - Ca cao Việt Nam: Năm 2014, chúng tôi xuất khẩu quý I được 500 nghìn tấn nhưng năm nay chỉ được 300 nghìn tấn. Với lí do chính là giá xuống. Tức là hiện nay giá từ 1700 USD-1800 USD. Điều đó thể thiện qua cung - cầu thị trường quyết định. Thứ 2, thực tế giá thấp khiến người lao động, người nông dân sản xuất ra không đáp ứng được yêu cầu lợi nhuận thu được, mà lỗ, do đó việc cung - cầu đó cũng là hạn chế.

Sản lượng giảm là do nhu cầu của thị trường nhưng cũng là do hoạt động của một số nhà đầu cơ, họ tìm mọi cách ép giá. Đây là một điểm chúng ta cần suy nghĩ và đối với các nhà kinh doanh cũng phải làm sao để thúc đẩy phát triển ngành cà phê. Sản lượng năm 2013, 2014 thì là 1,6 triệu tấn nhưng bước sang năm 2015, dự báo sản lượng giảm nhưng giá lại không tăng, do cung cầu thị trường cũng đã bão hòa. Tuy nhiên, cà phê là ngành hàng thiết yếu nên chúng tôi tin rằng, thị trường cà phê trước sau cũng sẽ ổn định, đảm bảo ổn định cho người nông dân có lãi.

Thêm nhiều cơ hội cho xuất khẩu khi Việt Nam hội nhập sâu rộng

Mặc dù kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông thủy sản quí I năm 2015 có giảm so với cùng kỳ, với những nguyên nhân được phân tích ở trên, tuy nhiên một số ý kiến cho rằng, sự sụt giảm này không đáng lo ngại do tạm chững theo chu kỳ và sẽ tăng dần trở lại trong quý II và III. Tuy nhiên, cũng theo đánh giá của nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông thủy sản, tình trạng trên cũng chính là dấu hiệu cho thấy 2015 sẽ là một năm với nhiều diễn biến khó lường trong hoạt động giao thương nông thủy sản quốc tế. Vậy quan điểm của Thứ trưởng Trần Tuấn Anh về vấn đề này ra sao?

Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh: Tôi nghĩ rằng, chắc chắn năm 2015 không phải là một năm dễ dàng với Việt Nam do cục diện chung của thế giới ở khía cạnh về chính trị, về ổn định chung, về các đối tác trên thế giới. Ngay quý I/2015 đã bộc lộ ra một số diễn biến của thị trường mà đòi hỏi chúng ta cần phân tích, đánh giá kỹ hơn để ít nhất cũng nhận diện được ra những nét đặc thù trong năm 2015, trong diễn biến của xu thế thị trường thế giới.

Đối với những khía cạnh tích cực, rõ ràng Việt Nam xây dựng một nền kinh tế thị trường với những nguyên tắc mở cửa rất chủ động và sâu rộng. Đặc biệt 2015, chúng ta chứng kiến những khung khổ hội nhập đang bắt đầu thực hiện hoặc chuẩn bị kết thúc để đi vào thực hiện như là Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), các Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA), Hiệp định thương mại tự do với Liên minh thuế quan… đều có khả năng kết thúc trong năm 2015 và như vậy sẽ có những hỗ trợ nhất định, tác động thuận lợi cho chúng ta trong việc mở rộng cơ hội, tiếp cận thị trường thế giới và mở rộng thị trường tiêu thụ cho các mặt hàng nông sản của Việt Nam. Đây được coi là điều kiện thuận lợi và tôi tin rằng chắc chắn chúng ta sẽ có được cơ hội mang lại kết quả tích cực hơn cho xuất khẩu. Cụ thể như chúng ta đã thấy, mặc dù có một số sụt giảm nhất định trong xuất khẩu nông thủy sản nhưng xuất khẩu của chúng ta đối với một số thị trường khi có những cơ hội mà các FTA mang lại như của Chile, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu đều có tốc độ tăng trưởng và liên tục, thậm chí thị trường xuất khẩu sang Chile tăng đến hơn 200%.

Thứ hai, thuận lợi từ điều hành vĩ mô mang lại sự ổn định cũng như những quyết tâm chính trị của cả một hệ thống, của Chính phủ tạo thuận lợi tối đa cho DN thông qua các chương trình hành động của Chính phủ và qua Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 19/NQ-CP và rất nhiều các chương trình khác, tiếp tục hướng tới, tạo một môi trường ổn định cả về vĩ mô và điều hành trong các lĩnh vực nhằm tạo điều kiện cho DN có cơ hội tiếp cận thị trường, có cơ hội ổn định, phục vụ cho đầu tư, sản xuất, chế biến, kinh doanh, tiêu thụ… trong đó có xuất khẩu.

Thứ ba, chúng tôi cho rằng, năm 2015 cho dù rằng còn có những bất ổn và tiềm ẩn những điều khó khăn mà chúng ta chưa đánh giá hết được thì chắc chắn trong các quý còn lại theo những nhận định chung của các nhà kinh tế cũng như diễn biến chung của kinh tế thế giới thì hoàn toàn có thể tin rằng sẽ có sự phục hồi lại của thị trường. Đặc biệt trong một số ngành sản xuất, sản phẩm chúng ta đang có thế mạnh, kể cả như lương thực, thực phẩm cũng như một số ngành hàng công nghiệp chế biến, thì chúng tôi tin rằng với sự hồi phục của kinh tế thế giới từng bước thì sẽ có sự hồi phục của cung - cầu thế giới.

Thứ tư, các đề án cũng như các chương trình lớn của Chính phủ trong việc tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó có nền kinh tế nông nghiệp đang triển khai quyết liệt với những đề án của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang thực hiện theo chỉ đạo của Chính phủ để tái cơ cấu nông nghiệp, hay là các đề án cũng như chương trình cụ thể của Chính phủ nhằm nâng cao hơn nữa năng lực sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua đổi mới về công nghệ, đổi mới về quản trị cũng như nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực. Với những chương trình rất ý nghĩa như vậy của Chính phủ thì chúng tôi tin rằng là cả nền kinh tế cũng như các DN sẽ được cải thiện nhiều về năng lực cạnh tranh của mình.

Thứ năm, đó là các nỗ lực mà Chính phủ đang chỉ đạo các Bộ, ngành tập trung cùng với các hỗ trợ cho DN không chỉ thông qua các Hiệp định thương mại tự do, không chỉ bằng hoạt động vĩ mô mà bằng cả những hành động cụ thể. Ví dụ như chương trình hỗ trợ cho ngành hàng gạo, nông sản, những chỉ thị hỗ trợ trực tiếp để giải quyết khó khăn cho ngành thủy sản như Quyết định của Thủ tướng trong hỗ trợ về tín dụng, hỗ trợ về các điều kiện kinh doanh của các DN trong lĩnh vực chế biến thủy sản, các vấn đề cụ thể hỗ trợ cho DN trong giải quyết các tranh chấp thương mại, v.v... Tôi tin rằng, những nỗ lực này với sự tham gia của các Bộ, ngành chắc chắn sẽ giúp cho DN rất nhiều trong tháo gỡ khó khăn cũng như tiếp tục có những chiến lược ổn định trong sản xuất, kinh doanh.

Chúng tôi tin rằng trong năm 2015, khó khăn còn nhiều và còn nhiều trở ngại, thách thức, nhưng chúng tôi tin rằng với quyết tâm chính trị và ý thức trách nhiệm cao của cả hệ thống, đặc biệt của các cơ quan quản lý Nhà nước và sự đồng hành, nhận thức chung của cộng đồng DN thì những mục tiêu phát triển của chúng ta trong năm 2015 sẽ cơ bản được hoàn thành.

Gạo là một trong những mặt hàng nhạy cảm. Một trong những mục tiêu của công tác điều hành xuất khẩu gạo là phải tiêu thụ hết lúa gạo hàng hóa cho nông dân. Theo Ông Phan Xuân Quế, cơ quan quản lí nhà nước điều hành linh hoạt như thế nào để mục tiêu này được thực hiện nhưng vẫn giúp các đảm bảo hiệu quả kinh doanh chung của các doanh nghiệp, đặc biệt là công tác thị trường?

Ông Phan Xuân Quế, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty lương thực Miền Bắc: Trước hết nói về gạo thì không chỉ là mặt hàng nhạy cảm mà gạo còn là mặt hàng hết sức quan trọng. Chính vì vậy, kinh doanh xuất khẩu gạo là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã thấy sự chỉ đạo hết sức quyết liệt của Chính phủ, Bộ, ngành, quản lý Trung ương cũng như Hiệp hội và các tổ chức hội viên liên quan đến kinh doanh xuất khẩu gạo. Đây chính là điều kiện giúp DN chủ động trong việc phát huy nguồn lực, tìm kiếm thị trường xuất khẩu gạo.

Tuy nhiên có thể nói, để ngành gạo phát triển ổn định và bền vững không chỉ một mình DN xuất khẩu gạo làm hết được mà cần cả một hệ thống, bởi nó liên quan đến chuỗi giá trị tham gia sản xuất ngành hàng, từ khâu sản xuất chế biến, khâu tiêu thụ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo liên quan đến công tác kinh tế tập thể và phát triển các hợp tác xã. Đây cũng là điều kiện giúp DN tham gia trong chuỗi giá trị này, xây dựng mô hình liên kết phát triển vùng nguyên liệu tập trung, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công tác canh tác, cơ giới hóa trong sản xuất chế biến và đưa ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường, đặc biệt là các thị trường khó tính như EU, các thị trường Trung Đông. Ngoài ra, các DN cũng phải chủ động, tích cực làm tốt công tác quản trị,tìm kiếm, khai thác các thị trường mới, phải có chiến lược dài hạn và ngắn hạn. Trong dài hạn, ví dụ như với Tổng công ty Lương thực miền Bắc, chúng tôi có những giải pháp liên quan đến kinh doanh xuất nhập khẩu trong đó công tác thị trường, các giải pháp về tài chính, về đầu tư, giải pháp về quản trị, giải pháp về nguồn nhân lực, tất cả các giải pháp phải đồng bộ hướng đến mục tiêu sử dụng nguồn lực làm sao hiệu quả nhất. Đây là một trong những yếu tố quyết định thành công của DN và đây cũng là cơ sở để giúp cho DN có điều kiện tiêu thụ hết hàng hóa cho bà con nông dân một cách có hiệu quả.

Thưa Ông Nguyễn Hoài Nam, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta như cá tra, tôm liên tục gặp những trở ngại tại các thị trường xuất khẩu chính. Xin ông cho biết các giải pháp đang được triển khai từ phía cộng đồng doanh nghiệp, và theo ông, các cơ quan quản lí nhà nước cần có những giải pháp nào để hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thủy sản trong thời gian tới?

Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu Thủy sản Việt Nam: Hiện nay các DN chế biến xuất khẩu thủy sản, bên cạnh những hoạt động mang tính ngắn hạn, một vấn đề mà trong thời gian vừa qua và chắc chắn trong thời gian tới Hiệp hội đã nhìn thấy là đó là giá thành. Hiện nay, chúng tôi đã xem lại trong nhiều chương trình về tiếp cận thì tâm lý của các DN và người dân khi làm sản phẩm của mình thì rất muốn bán giá cao hơn và cao hơn nữa. Trong khi đó, chúng ta phải hiểu rằng, đối với xuất nhập khẩu hiện nay thì nhiều mặt hàng của chúng ta đã bão hòa theo ngưỡng của cung cầu. Bởi vậy, đối với các nhóm ngành hàng mà trước tiên là những ngành hàng liên quan đến nuôi trồng, chúng tôi quan tâm đến từng mắt xích trong chuỗi nuôi làm sao giảm giá thành. Chúng tôi đã báo cáo với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và có cơ sở báo cáo Bộ Công Thương rằng đây sẽ là mấu chốt cho tương lai gần, bởi chỉ có giảm giá thành chúng ta mới nâng cao được nâng lực cạnh tranh.

Về phía DN, ngoài những việc mang tính định kỳ nhưng rõ ràng quan trọng, đó là công tác về xúc tiến thương mại. Hiện nay Hiệp hội cũng đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương và cũng tham gia đầy đủ trong những chương trình xúc tiến thương mại, các chương trình trọng điểm nhất là ở các thị trường Châu Âu. Trong tháng 4, sẽ có rất nhiều hoạt động chúng tôi phải đổi mới toàn diện về xúc tiến thương mại, xây dựng hình ảnh cho những mặt hàng chiến lược của thủy sản Việt Nam như là tôm, cá tra, cá ngừ. Trong công tác thị trường chúng tôi luôn duy trì hình ảnh về chất lượng, về nguồn cung để đảm bảo sự ổn định.

Tuy nhiên, đối với câu hỏi nêu trên được đặt ra trong bối cảnh nhiều thách thức khó khăn của thị trường, đặc biệt là sản xuất trong nước thì chúng tôi hiểu rằng, phải có được năng lực cạnh tranh nhất định chúng ta mới tham gia được, dù thị trường có ở mức độ nào. Xét ở khía cạnh này, chúng tôi đang có đề xuất, kiến nghị, trước hết với Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, để thực hiện những công việc ngắn hạn trong thời gian 1-2 năm. Bởi chúng tôi hiểu, năm nay là một năm Chính phủ đặc biệt quan tâm đến DN, đặc biệt là công tác triển khai thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-CP, làm sao để trong 2105-2016 chúng ta phải nằm trong TOP ASEAN 6, ASEAN 4.

Chúng tôi có ba đề xuất: Thứ nhất, trong bối cảnh từ giờ đến cuối 2015 khi mà vấn đề giá trị tỉ giá đồng EUR chưa có dấu hiệu điều chỉnh lại như bình thường mà đang thấp xuống gần với đồng đô la, mà hiện nay chúng ta đang lấy đồng đô la làm thương mại chính thì chúng tôi có đề xuất với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công Thương là có ý kiến Chính phủ cũng như ngân hàng điều chỉnh lãi suất vay ngắn hạn. Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đang ra tối đa là 7%. Tất nhiên, chúng tôi vẫn hiểu rằng với những DN với mức độ uy tín và lượng tín dụng khác nhau có thể có được mức thấp hơn nhưng rõ ràng trong bối cảnh hiện nay chúng ta có một sân chơi công bằng hơn đối với các đối tác quốc tế và các đối thủ quốc tế thì đây là một giải pháp chúng tôi đã có báo cáo với Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương để hai Bộ có ý kiến với Chính phủ với ngành ngân hàng giảm lãi suất ngân hàng, cũng sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong năm 2015-2016.

Thứ hai, đó là bản thân DN đang nỗ lực làm dù là ngành nuôi trồng hay là ngành liên quan đến khai thác, chính là vấn đề về giá thành. Tôi ví dụ một chuỗi sản xuất về tôm từ nuôi trồng cho đến khi xuất khẩu phải qua rất nhiều trung gian. Trung gian trước hết ở đây là về đối tượng và những thành phần tham gia, trung gian thứ hai là những vật tư và những yếu tố đầu vào. Rõ ràng chúng ta có thể dùng chính sách và nỗ lực của DN cắt giảm, có thể tối ưu để giảm. Khi giảm giá thành, chúng ta có năng lực cạnh tranh. Trước mắt, về phía bên các DN và ngành hàng tôm cũng như Hiệp hội đã trao đổi và sẽ sớm có những đề xuất đối với Bộ Công Thương với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trọng tâm chúng ta phải giảm giá thành.

Thứ ba, ngay từ đầu năm, trong quý I Chính phủ đã rất kịp thời để ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP, Nghị định 08/2015/NĐ-CP liên quan đến cải cách thủ tục hành chính, liên quan đến nâng cao năng lực cạnh tranh DN, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia thì chúng tôi mong muốn, hi vọng và đề nghị sẽ được tham gia tích cực, đầy đủ những giải pháp Chính phủ đang chỉ đạo từng Bộ, ngành trong đó có Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Với các giải pháp đã đề ra nếu như trong năm 2015 có được những kết quả ngay thì sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trước hết cho ngành thủy sản.

Riêng đối với Bộ Công Thương, chúng tôi mong muốn và chờ đợi rất nhiều các FTA bởi Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản VASEP cũng đã tham gia tham vấn, trao đổi, trước hết là với đoàn tham gia đàm phán các FTA. Chúng tôi hiểu rằng, đây là vấn đề rất là quan trọng trong giao thương sắp tới. Bởi hầu hết các FTA này đều là những thị trường chính của ngành thủy sản. Bởi khi các FTA được thực thi, không chỉ giải quyết được những vấn đề về nguồn gốc, C/O, các vấn đề về kỹ thuật mà cả việc mở rộng thị trường. Rõ ràng ngay từ bây giờ, khi mà các vòng đàm phán đã gần kết thúc thì chúng tôi đề nghị và mong muốn sẽ đạt được kết quả tốt nhất để giúp cho các ngành hàng liên quan đến nông thủy sản.

Tái cơ cấu sản xuất để giảm giá thành

Đó là ý kiến của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản, vậy Thứ trưởng có ý kiến gì không?

Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh: Tôi xin phép được chia sẻ và bổ sung thêm hai ý. Một là tôi rất đồng tình và tán thành quan điểm của đại diện VASEP đã đề cập đến. Đó là năng lực cạnh tranh của các sản phẩm của Việt Nam sẽ là yếu tố quyết định cho thành công không phải chỉ nhìn ở góc độ đảm bảo được kim ngạch xuất khẩu và mục tiêu xuất khẩu, mà như tôi đã trao đổi đó là sự thành công cạnh tranh trong phát triển kinh tế xã hội nói chung và trong thời đại hội nhập. Bên cạnh thuận lợi về mặt thương mại, về mặt thị trường, những nguồn hỗ trợ thì điều quan trọng nhất đối với các DN rõ ràng yếu tố hướng tới là phải cắt giảm chi phí giá thành, bởi đặc thù của thương mại gạo hiện nay và cũng là một đặc thù đang phát triển mạnh, xu thế chung của thị trường, là người mua sẽ là người quyết định chứ không phải là người bán. Nếu chúng ta không khẳng định vị thế thông qua năng lực cạnh tranh ngày càng tăng của chúng ta thì không thể nào thành công được trong hội nhập.

Thứ hai, đối với nuôi trồng thủy sản, kể cả công nghiệp chế biến, trước khi đến chuỗi, công đoạn của xuất khẩu thì trong chuỗi giá trị này chắc chắn chúng ta phải lưu ý nhiều đến khâu tổ chức và đảm bảo những điều kiện hạ tầng, cắt giảm được chi phí, giảm giá thành cho các sản phẩm. Tuy nhiên, chúng tôi hiểu, muốn làm được điều này phải có cả sự đồng hành của cơ quan nhà nước và DN. Vấn đề tiếp theo cũng là ý kiến tôi cho rằng rất trúng và rất hay, bởi sáng ngày 17 tháng 4, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng đã chủ trì hội nghị rất quan trọng bàn về triển khai chương trình tổng thể về truyền thông và thông tin để phổ biến kiến thức về hội nhập và đặc biệt hướng tới các DN trong năm 2015. Có lẽ đây là lần đầu tiên cả một hệ thống được phân tích, đánh giá, nhìn nhận ở góc độ trách nhiệm chung trong việc tổ chức, cung cấp thông tin, để quảng bá, truyền thông cho đầy đủ các thành phần trong xã hội kể cả người tiêu dùng cũng như các DN và các cơ quan quản lý để chúng ta đảm bảo rằng, những khung khổ hội nhập với các nội dung rất quan trọng mà rất vất vả chúng ta mới đạt được đến thì phải được khai thác, quán triệt, nhận thức, nắm bắt, để khai thác một cách tối đa về mặt hiệu quả của nó. Chính vì vậy, chúng tôi cũng cho rằng, bên cạnh những nỗ lực chung của các cơ quan quản lý nhà nước thì sự chủ động của DN trong kiến thức về hội nhập cũng như tiếp cận những kiến thức mới là vô cùng quan trọng. Chúng tôi rất mong các Hiệp hội, đặc biệt với vai trò là người tham gia kiến tạo, tập hợp lực lượng, cầu nối cho DN với các cơ quan quản lý Nhà nước để chúng ta có thể khai thác tốt các cơ hội trong hội nhập nhằm phát triển kinh tế xã hội.

Cà phê là mặt hàng còn rất nhiều dư địa để nâng cao giá trị gia tăng, chiếm lĩnh thị trường nội địa và tăng trưởng xuất khẩu bền vững. Theo Hiệp hội Cà phê - ca cao, doanh nghiệp cần làm gì và cơ quan quản lí nhà nước cần có những giải pháp như thế nào để cà phê Việt Nam có vị thế cao hơn trong chuỗi giá trị cà phê toàn cầu.

Ông Phan Hữu Đễ, nguyên Tổng thư ký Hiệp Hội Cà phê - ca cao Việt Nam: Để cà phê được nâng cao giá trị thì điều cơ bản nhất là phải mở rộng thị trường và thứ hai là củng cố thị trường đang có. Muốn để đảm bảo yếu tố này thì chất lượng cà phê phải đảm bảo. Lượng xuất khẩu vào các thị trường cũng phải đảm bảo. Phía Hiệp hội cũng đã thúc đẩy DN cố gắng đi vào được thị trường mới, như thị trường Nga hiện nay còn đang bỏ ngỏ vì trong khi đây là một thị trường mạnh. Chúng tôi cũng rất là mong Bộ Công Thương đã có những chính sách xúc tiến thương mại thì sẽ tiếp tục đẩy mạnh cùng DN tìm kiếm thêm các thị trường mới. Ngoài ra, phải nâng cao việc xuất khẩu các mặt hàng đã chế biến bởi nếu chúng ta chỉ xuất khẩu hàng thô thì giá trị sẽ giảm sút. Do đó, chúng tôi đề nghị tạo điều kiện cho ngành chế biến sản phẩm. Đối với các mặt hàng đang xuất khẩu thì cần cơ quan quản lý hỗ trợ DN đấu tranh với các nước giảm thuế, nếu không lại là rào cản rất khó khăn để tiến vào các thị trường. Đối với thị trường nội địa thì phải nhận định đây là thị trường rất cơ bản nhưng chúng ta hình như còn bỏ ngỏ. Nên chúng tôi cũng yêu cầu các DN phải thúc đẩy thị trường này. Bởi đối với các nước xuất khẩu cà phê lớn như Braxin hay Indonexia thì 35% là tiêu thụ trong nước, trong khi đó, Việt Nam chỉ có 7-8% và 10%. Vậy từ nay đến năm 2020 chúng tôi cố gắng đề nghị thúc đẩy DN đạt tới tiêu thụ 15% sản phẩm cà phê ở thị trường nội địa.

Một vấn đề nữa là về vốn để tái canh, bởi nếu chúng ta không tái canh một cách nhanh chóng thì khoảng 5-10 năm nữa sản lượng sẽ không còn được như thế này. Hiện nay sản lượng cà phê 20-25 năm tuổi là chiếm tới 140 nghìn ha và diện tích này nếu không cải thiện sẽ tăng lên. Và muốn được tái canh thì nhà nước phải hỗ trợ, nhất là về mặt lãi suất bởi sau 3 năm khi trồng thì đến năm thứ 3 bắt đầu bón đến năm thứ 5 sản lượng mới tăng. Thời hạn của cây cà phê là 20-25 năm, vậy vốn như thế nào để người nông dân có được tái tạo bởi đối với trồng cà phê thì gần như 3 năm đầu không thể thu hồi vốn.

Thứ trưởng Trần Tuấn Anh có ý kiến gì về đề xuất của Hiệp hội Cà phê - ca cao Việt Nam hay không, thưa Thứ trưởng?

Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh: Ý kiến đại diện của các Hiệp hội ngành hàng thủy sản, lương thực, cà phê... và nhiều Hiệp hội ngành hàng khác thì đều phản ánh thực tiễn các hoạt động về chế biến, canh tác thu hoạch chế biến phục vụ cho tiêu thụ kể cả trong thị trường nội địa cũng như xuất khẩu. Bộ Công Thương luôn luôn có những chương trình làm việc thường xuyên với các Hiệp hội ngành hàng, bởi chúng tôi rất chia sẻ những tâm tư cũng như nhu cầu và những quan điểm của các DN và chỉ có DN mới là động lực phát triển cho các ngành kinh tế. Vì vậy những chương trình làm việc của Bộ Công Thương rải đều trong năm, không chỉ riêng khi có sụt giảm như thế này Bộ Công Thương mới làm việc mà chúng tôi thường xuyên có những trao đổi định kỳ với Hiệp hội ngành hàng để phân tích, đánh giá cũng như lắng nghe ý kiến phản hồi của DN. Trên cơ sở phân tích, đánh giá từ những thực tiễn cũng như trong các khung khổ pháp lý đã có, cũng sẽ có những biện pháp cụ thể để giải quyết trong chừng mực trách nhiệm của mình cũng như trong thẩm quyền của thuộc Bộ Công Thương. Còn có những vấn đề khác vượt thẩm quyền chúng tôi chủ động phối hợp với các Bộ, ngành như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã có phối hợp xử lý, báo cáo Chính phủ. Ý kiến cụ thể các đại diện của các Hiệp hội ngành hàng, chúng tôi cũng đã có dịp được nghe và chúng tôi sẽ tiếp thu, đồng thời có phương án để phối hợp nhằm có những điều chỉnh cũng như đảm bảo tính hiệu quả trong thực thi chính sách của mình. Ví dụ như những ý kiến liên quan đến tiếp tục nghiên cứu những cơ chế để hỗ trợ cho DN thuận lợi hơn trong việc đầu tư nâng cao giá trị gia tăng trong chuỗi sản xuất như cà phê, hay là việc như là giải quyết những khó khăn cụ thể liên quan đến điều kiện tái canh cà phê, cũng có thể có những vấn đề không trực tiếp thuộc thẩm quyền của chúng tôi nhưng chúng tôi cũng xin ghi nhận và chắc chắn có những biện pháp để phối hợp với Bộ, ngành liên quan.

Thế còn ở đây, cụ thể chúng tôi xin có lẽ phải đề nghị, về phía các DN chúng ta cũng cần nói về trách nhiệm của DN. Về điều kiện, yêu cầu của DN đã nói rồi, nhưng có điều rất quan trọng chúng ta chưa đề cập đến là người lao động, người trực tiếp làm ra sản phẩm, là người nông dân. Trong một chuỗi như vậy chúng ta cần đặt vấn đề cho đúng vị trí trong mối quan hệ tương tác đó và ở đây tôi không muốn đặt vấn đề sâu hơn vì nó thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của các Bộ, ngành khác, nhưng rõ ràng chúng ta thấy DN có thành công hay không thì ngoài cơ chế chính sách thuận lợi của Nhà nước thì sự kết nối liên kết của DN với khâu sản xuất là tương đối quan trọng, ngay kể cả là đảm bảo giá thành sản xuất cũng như là khâu nguyên liệu để xây dựng thương hiệu cũng như giá trị sản phẩm. Vì vậy, chúng tôi cho rằng một yếu tố đã và đang nói đến nhiều và đang tiếp tục thực hiện đó là việc xây dựng mối quan hệ liên kết giữa các DN với vùng sản xuất, với người nông dân là yếu tố quan trọng.

Chúng tôi cho rằng các DN cũng phải có sự chủ động hơn nữa của mình trong việc xây dựng mối quan hệ đó, và rõ ràng chỉ có quan hệ bền vững giữa DN trong chế biến, tiêu thụ với người nông dân sản xuất thì chúng ta mới đảm bảo được sự chủ động của DN trong xây dựng thương hiệu cũng như chiến lược kinh doanh của mình.

Tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho DN

Thưa Thứ trưởng, Bộ Công Thương sẽ triển khai những giải pháp gì đẩy mạnh tiêu thụ, xuất khẩu nông thủy sản thời gian tới?

Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh: Đây là câu hỏi lớn nhưng tôi cũng cố gắng gói gọn trong một số ý như sau: Đây là nhiệm vụ cả về dài hạn có tính thường xuyên và nhiệm vụ có tính cấp bách đặt ra cho Bộ Công Thương. Để thực hiện những nhiệm vụ này, Bộ Công Thương cũng đã xác định và cũng đã tổ chức triển khai từ nhiều năm nay để thực hiện nhất quán, đồng bộ nhưng đồng thời đặt ra yêu cầu có tính cấp thiết hơn nữa ở giai đoạn hiện nay. Cụ thể:

Trước tiên, vai trò trách nhiệm của Bộ Công Thương là phải tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, đầy đủ tinh thần chỉ đạo của Chính phủ trong tiếp tục ổn định vĩ mô và tạo ra những môi trường thuận lợi thông thoáng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất khẩu của DN và điều này được thể hiện như chúng ta từng trao đổi trong Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 19/2015/NQ-CP mới đây của Chính phủ cũng đã rất rõ nét, Bộ Công Thương cũng như các Bộ, ngành đều có những chương trình hành động cụ thể để xác định những nhiệm vụ của mình trong tổ chức thực hiện.

Thứ hai, nội dung cũng được quán triệt trong những nhiệm vụ dài hạn của Bộ Công Thương là tiếp tục tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm, hàng hóa của nền kinh tế. Đặc biệt thông qua các khung khổ hội nhập mà chúng ta đang đàm phán một cách tích cực như TPP, FTA với EU, Liên minh thuế quan, v.v… Tất cả các nội dung quan trọng của đàm phán đều được chúng ta cân nhắc và tính toán một cách thiết thực để đảm bảo hiệu quả cao nhất trong việc mở cửa thị trường của thế giới. Ví dụ, nếu TPP và FTA với Liên minh thuế quan, FTA với EU kết thúc thành công và đi vào thực hiện thì mở ra cơ hội lớn cho chúng ta. Tất cả mặt hàng sản phẩm của nông sản thủy sản, mặt hàng ngành hàng chế biến của Việt Nam gần như được đưa về mức thuế bằng 0% hoặc mức thấp để sau đó tiến tới bằng 0%. Và như vậy, cơ hội cho chúng ta thâm nhập thị trường là rất lớn không kể đến là các đàm phán đều đề cập đến các nước phải dỡ bỏ những hàng rào không chỉ thuế quan mà cả kỹ thuật theo hướng đơn giản và thông thoáng để cho các sản phẩm các nước có thể tiếp cận thị trường của nhau 1 cách dễ dàng. Đây chính là có thể nói là yếu tố quan trọng để phát triển và mở rộng thị trường.

Thứ ba, Bộ Công Thương cũng đang xác định từ thực tế phân tích các diễn biến trong hoạt động thương mại quốc tế cũng như hoạt động xuất khẩu của chúng ta thì chúng ta cũng nói nhiều về việc nắm bắt, theo dõi thông tin của thị trường, để từ đó có những đối sách và biện pháp phù hợp để khai thác được cơ hội và vượt qua thời điểm khó khăn thì chúng ta đã làm nhiều, tuy nhiên phải nói rằng, chúng ta làm chưa tốt và chưa phát huy được hết hiệu quả. Ví dụ, việc theo dõi sát thị trường của chúng ta trong thời gian vừa qua thì mặc dù về cơ bản các thông tin thị trường của chúng ta cũng đã có đầy đủ nhưng độ cập nhật thông tin còn hạn chế. Ví dụ như một số thị trường có điều chỉnh các chính sách về nhập khẩu hoặc những chính sách về điều hành về kinh tế của họ thì chúng ta cũng chưa cập nhật kịp thời và có một cách ứng phó kịp thời. Ví dụ như có những xu thế bảo hộ mậu dịch ở một số quốc gia đối tác của chúng ta trong khu vực Đông Nam Á trong nhập khẩu một số mặt hàng nông sản thì chúng ta cũng chưa nắm bắt kịp thời những diễn biến của cũng như những điều chỉnh mới khiến cho việc tổ chức lại khai thác thông tin và tổ chức lại sản xuất của chúng ta, cũng như việc ứng phó chưa làm kịp. Do vậy, có sự ách tắc nhất định trong tiêu thụ sản phẩm với thị trường bên ngoài mặc dù chỉ mang tính chất cục bộ.

Hoặc là chúng tôi cũng cho rằng, một yếu tố chúng ta cần quan tâm tốt hơn đó là thực tế là có sự đứt đoạn trong các khâu xử lý và khai thác thông tin. Thông tin thị trường chúng ta có, các cơ quan quản lý Nhà nước có, thế nhưng mà cách khai thác thông tin, tổ chức lại sản xuất, định hướng cung cấp cho người nông dân, cho sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp còn có những ách tắc, còn có những ồ ạt. Ví dụ như câu chuyện còn đang rất nóng mà xã hội quan tâm thời gian vừa qua là tiêu thụ trái cây tại thị trường Trung Quốc, xuất khẩu thanh long, dưa hấu sang Trung Quốc. Chúng ta đều có những thông tin về mặt thị trường cả về chính ngạch cũng như các hoạt động tiểu ngạch, hoạt động thương mại qua biên giới. Tuy nhiên, người nông dân sản xuất các mặt hàng như dưa hấu, thanh long lại không được cập nhật kịp thời về những thông tin liên quan đến quy cách, thủ tục thông quan, yêu cầu của thị trường, tập quán mua bán..., nên dẫn đến tình trạng mặt hàng dưa hấu gia tăng sản xuất hàng năm nhưng năng lực thông quan các cơ quan chức năng của hai nước ở tại biên giới thì vẫn không thể gia tăng được, không thể đáp ứng được yêu cầu trên thực tế. Và đồng thời, việc tổ chức xuất khẩu và vận chuyển các mặt hàng trái cây sang biên giới, sang Trung Quốc cũng lại không được cập nhật thông tin về thị trường, dẫn đến vào mùa vụ là trái cây ùn tắc tại cửa khẩu là do năng lực thông quan hạn chế, mặc dù hai nước và các cơ quan chức năng đều rất cố gắng để cải thiện thủ tục thông quan. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, những vấn đề nghiên cứu về thị trường để từ những thông tin đó, định hình xây dựng quy hoạch trong sản xuất nông nghiệp để có mặt hàng nông sản có chất lượng, có phẩm chất phù hợp và đáp ứng được những yêu cầu của thị trường là yêu cầu đang đặt ra của các cơ quan quản lý Nhà nước. Chúng tôi cho rằng, nếu khắc phục được sự đứt đoạn trong khâu thông tin để chúng ta từng bước cải thiện, nâng cao hiệu quả phối hợp để tạo ra được chuỗi giá trị trong tất cả các khâu của một sản phẩm.

Một vấn đề nữa trong năm 2015, những tháng còn lại cần sự tập trung rất lớn của các cơ quan quản lý Nhà nước trong đó có Bộ Công Thương, trong việc nâng cao và mở rộng hơn nữa các hoạt động về xúc tiến thương mại, đổi mới mô hình cũng như phương thức, nâng cao chất lượng của xúc tiến thương mại. Đặc biệt, cần phải nâng cao hơn nữa tính chủ động và vai trò DN tham gia các chương trình về xúc tiến thương mại. Khai thác tối đa các chương trình xúc tiến thương mại để tạo ra hiệu ứng kích thích, để tạo ra vai trò lớn hơn của DN trong việc tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại đó. Và rõ ràng phải đổi mới về những hình thức xúc tiến thương mại, gắn hiệu quả xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, thâm nhập thị trường thông qua hệ thống phân phối và đầu mối cơ bản của những thị trường đó.

Nhiệm vụ cuối là phải có một cơ chế phối hợp và thường xuyên chặt chẽ nữa giữa các Bộ, ngành, các cơ quan quản lý Nhà nước như những vấn đề đã có kinh nghiệm trong phối hợp xử lý những vấn đề tiêu thụ nông sản, trái cây cho người nông dân như trái vải ở Bắc Giang năm 2014 và những vấn đề liên quan đến dưa hấu vừa rồi, tiếp tục là các mặt hàng trái cây khác qua biên giới, cũng như vấn đề điều hành tiêu thụ gạo, hàng hóa cho người nông dân và những vấn đề liên quan đến xử lý các tranh chấp thương mại tại các thị trường quốc tế khác nhau và qua đó đòi hỏi sự phối hợp của các Bộ, ngành trong đó có Bộ Công Thương. Có thể nói còn nhiều nhiệm vụ và nhiều yêu cầu đặt ra nhưng chúng ta cần phải chủ động trong cách tiếp cận đòi hỏi xử lý toàn diện.

Xin trân trọng cảm ơn Thứ trưởng Trần Tuấn Anh và các vị khách mời đã tham dự chương trình.
 



Nguồn: moit.gov.vn