SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN TIÊU BIỂU
Sản phẩm công nghiệp nông thôn (CNNT) là hội tụ tinh túy của nghề truyền thống. Nhiều năm qua, sản phẩm CNNT ngày càng phát triển cả về chất và lượng, đáp ứng nhu cầu thị trường, giúp chuyển dịch kinh tế nông thôn, xóa đói giảm nghèo, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Tuy nhiên, việc phát triển và đưa các sản phẩm này ra thị trường thế giới còn gặp nhiều khó khăn.

Khó cạnh tranh

Hoạt động sản xuất màn tuyn đã 15 năm nhưng đến nay, Công ty CP Phú Lân (xã Đại Thắng, huyện Phú Xuyên, Hà Nội) vẫn sử dụng công nghệ in thủ công. Người thợ phải trải một tấm vải dài hơn 4m, rộng hơn 2m lên một mặt phẳng. Sau đó, người rải giấy in, người là, rồi lại người nhấc giấy lên... Mỗi lao động chỉ in được khoảng 300 - 500m vải/ngày. Việc in thủ công khiến Công ty không chỉ tốn diện tích nhà xưởng, chi phí thuê lao động mà còn phát tán ra môi trường nhiều chất độc hại. Trong khi, nếu đầu tư một máy in hoa văn vi tính thì mỗi ngày làm ra hàng nghìn mét vải, một cái máy thay thế hàng chục lao động. Nhất là khi thực hiện các đơn hàng xuất khẩu, nhiều đối tác nước ngoài đòi hỏi công nghệ sản xuất phải tiên tiến, thân thiện với môi trường, chất lượng sản phẩm phải đồng đều... khiến yêu cầu đổi mới máy móc, công nghệ đặt ra bức thiết hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, muốn đầu tư một dàn máy in lập trình vi tính có giá khoảng 2 tỷ đồng, điều này quá sức với một doanh nghiệp (DN) nhỏ.

Công ty CP Phú Lân chỉ là một trong rất nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn (CNNT) ở nước ta vẫn sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu, chắp vá dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp, chất lượng không đồng đều, tiêu hao nhiều nguyên liệu, phát thải nhiều chất gây ô nhiễm môi trường...

Bên cạnh đó, có khá nhiều ngành nghề như: Đúc đồng, gốm sứ, chiếu cói…đã từng một thời phồn thịnh, hàng làm ra nhiều, thị trường tiêu thụ mạnh. Nhưng do nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng thay đổi nên sản phẩm của các nghề này bán ra rất ít, hoặc chỉ bán được vào một thời điểm nào đó trong năm. Đầu ra không ổn định, sự thay đổi về nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng là nguyên nhân chính khiến DN ngại đầu tư, kết quả là vẫn sử dụng máy móc, công nghệ lạc hậu. Hệ thống mẫu mã, kiểu dáng và bao bì sản phẩm ít được cải tiến, khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại được sản xuất trên dây chuyền hiện đại, ngoại hình bắt mắt, chưa kể việc đăng ký thương hiệu, nhãn hiệu chưa được quan tâm đúng mức nên đôi khi các sản phẩm mang tính sáng tạo từ ngành nghề nông thôn còn bị đồng hóa. Đây là bài toán vô cùng khó trước những yêu cầu chuyên nghiệp hóa của thị trường hội nhập.

Cần nhìn nhận một thực tế nữa là quy mô sản xuất sản phẩm CNNT chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của địa phương, vùng. Một số sản phẩm CNNT chưa được chấp nhận tại các siêu thị do quy mô sản xuất nhỏ không đảm bảo được nguồn hàng thường xuyên, nhiều doanh nghiệp chưa đảm bảo quy trình chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, đăng ký tem nhãn... Sự phối hợp trong công tác xúc tiến thương mại có phần hạn chế nên chưa thực sự hỗ trợ được nhiều cho doanh nghiệp trong quảng bá, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa và xuất khẩu, đặc biệt là việc tiêu thụ các sản phẩm CNNT. Ngoài ra, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các hộ kinh doanh vùng nông thôn rất khó khăn về khả năng tiếp cận nguồn vốn. Vấn đề thương hiệu cho sản phẩm cũng là điều cản trở các sản phầm này đến với nhà phân phối và người tiêu dùng. Bên cạnh đó là những thủ tục ký hợp đồng, thanh toán do các nhà phân phối quy định còn khá ngặt nghèo và xa lạ đối với người dân vùng nông thôn.

Tìm lối ra cho sản phẩm

Mấy năm gần đây, tìm hướng đi mới cho CNNT là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Bên cạnh công tác công nhận sản phẩm tiêu biểu, Bộ Công Thương tiếp tục có các chương trình hỗ trợ về ứng dụng máy móc, thiết bị tiên tiến, hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ… từ đó giúp doanh nghiệp có điều kiện nâng cao năng suất lao động và bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp cũng được quan tâm nhiều hơn trong các chương trình xúc tiến thương mại, đăng ký thương hiệu, hỗ trợ truyền thông, hội chợ triển lãm cũng như tham gia xây dựng các sàn giao dịch điện tử. Các địa phương cũng ráo riết vào cuộc nhằm đẩy mạnh tìm kiếm thị trường cho sản phẩm CNNT. Điển hình là UBND TP Hà Nội đã xác định việc hỗ trợ đổi mới máy móc, công nghệ làng nghề là một trong những hoạt động quan trọng trong công tác khuyến công của TP. Riêng năm 2017, TP đã hỗ trợ hàng chục cơ sở sản xuất đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị với tổng kinh phí 2 tỷ đồng, mỗi mô hình sẽ được hỗ trợ tối đa 200 triệu đồng từ nguồn kinh phí khuyến công. Việc hỗ trợ ứng dụng công nghệ, thiết bị tiên tiến hiện đại vào sản xuất đã giúp nhiều DN, cơ sở sản xuất nông thôn, làng nghề nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Góp phần khuyến khích các DN đầu tư dây chuyền, thiết bị sản xuất mới, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt trên thị trường quốc tế.

Tuy nhiên, khó khăn nhất hiện nay là sự tự vận động của các doanh nghiệp còn quá chậm. Lỗi lớn nhất của các sản phẩm CNNT là thường được sản xuất theo lối truyền thống, sử dụng vật liệu cũ, thậm chí sử dụng hóa chất trong sơ chế nguyên liệu, không bảo đảm các tiêu chuẩn về chất lượng hàng hóa. DN ít chú trọng khâu nghiên cứu thị trường, thay đổi thiết kế, mẫu mã; không tạo được sự khác biệt nên giá trị hàng hóa thấp, độ đồng đều của sản phẩm không cao, rất khó đáp ứng được các đơn hàng lớn.

Theo các chuyên gia, nếu được tạo điều kiện tối đa bằng những chính sách đồng bộ và giải pháp tích cực, định hướng lâu dài sẽ là nền tảng giúp cho ngành nghề nông thôn có thể vượt qua khó khăn, ổn định và từng bước phát triển. Cụ thể, cần hỗ trợ nâng cấp hệ thống trang thiết bị phục vụ sản xuất của cơ sở, tổ ngành nghề, tổ hợp tác, hợp tác xã làng nghề nông thôn nhằm góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; hỗ trợ xây dựng các nhà trưng bày, hệ thống thông tin về sản phẩm làng nghề, chú trọng bảo tồn giá trị truyền thống sản phẩm thủ công mỹ nghệ; xây dựng các dự án phát triển nghề và làng nghề; dự án các sản phẩm có thể cạnh tranh trên thị trường; gắn phát triển làng nghề với phát triển du lịch, tăng cường xuất khẩu sản phẩm ngành nghề nông thôn; tiếp tục xây dựng kế hoạch hỗ trợ đầu tư phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề cho các cơ sở…

Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần đầu tư thích đáng cho thiết kế mẫu mã sản phẩm. Khâu thiết kế phải được dựa trên những nghiên cứu nghiêm túc về xu hướng thị trường, kết hợp với các nguyên - phụ liệu mới, thân thiện môi trường. Nên ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất để có thể sản xuất hàng loạt, nâng cao năng suất. Cải tiến, thay mới thiết bị, máy móc phục vụ quy trình sản xuất ngoài việc giúp các cơ sở CNNT tăng năng suất, chất lượng sản phẩm cao hơn mà còn là tiền đề cho phát triển lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của địa phương. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể ứng dụng công nghệ tự động hóa trong thiết kế mẫu mã; công nghệ sinh học trong chế biến, nhất là chế biến thực phẩm nhằm bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khỏe cho người tiêu dùng. Chủ động đổi mới cách thức quản trị doanh nghiệp, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến vào sản xuất, liên kết theo chuỗi sản xuất. Đồng thời, nhạy bén nắm bắt sự thay đổi của thị trường để có kế hoạch sản xuất, kinh doanh phù hợp. Đặc biệt, để giúp các doanh nghiệp phát triển bền vững, cần có một chính sách tiếp cận vốn thông thoáng hơn, đồng thời các cơ quan quản lý nhà nước cần hỗ trợ phát triển thương hiệu cho sản phẩm của địa phương và sự chung tay hỗ trợ từ các nhà phân phối.

TBT