Ngày 11/8/2004, UBND tỉnh Quảng trị ra Quyết định số 2464/QĐ-UB về việc thành lập Trung tâm Khuyến công trực thuộc Sở Công nghiệp (nay là Sở Công thương) với chức năng, nhiệm vụ triển khai hoạt động khuyến khích sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và các dịch vụ khuyến công của địa phương.


Sau 10 năm hoạt động, Trung tâm KC&XTTM (tiền thân là Trung tâm KC) đã đạt được những thành quả quan trọng, ngày càng khẳng định vị trí và tầm quan trọng trong sự phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và kinh tế tỉnh nhà. Hoạt động khuyến công đã tích cực hướng các nội dung vào góp phần thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế-xã hội, tháo gỡ các khó khăn cho các cơ sở sản xuất và thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2013 (theo giá so sánh 2010) là 5.540,1 tỷ đồng, tăng gần 4,0 lần so với năm 2004; số cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn (CNNT) tăng lên đáng kể và ngày càng có chất lượng; lực lượng lao động trong lĩnh vực CNNT cũng gia tăng và chiếm trên 90% tổng số lao động của ngành công nghiệp tỉnh. Tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất CNNT, nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy nhanh sự nghiệp CNH - HĐH tỉnh nhà.


Trong điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nhưng được sự chỉ đạo, giúp đỡ của Cục CNĐP, Bộ Công Thương, sự quan tâm của HĐND, UBND tỉnh nên hàng năm kinh phí khuyến công đều được bố trí ổn định và năm sau tăng hơn so với năm trước. Tổng kinh phí hoạt động 10 năm qua là trên 14.424 triệu đồng, trong đó, nguồn ngân sách tỉnh bố trí trên 12.161 triệu đồng và kinh phí khuyến công quốc gia đã hỗ trợ 2.263 triệu đồng.


Đã tổ chức đào tạo nghề, truyền nghề và nâng cao tay nghề cho hơn 3.740 lao động nông thôn, với kinh phí 2.606,7 triệu đồng. Các ngành nghề tập trung đào tạo đó là: may công nghiệp, ván ghép thanh, mộc mỹ nghệ, thêu ren, sản xuất bao bì PP, đồ gỗ nội thất, chê biến thuỷ sản, mây tre đan, ...Các hoạt động đào tạo nghề đều gắn với nhu cầu sử dụng lao động của các cơ sở công nghiệp nông thôn, nên hầu hết lao động đều có việc làm và thu nhập ổn định sau đào tạo. Đến nay đã có 10 làng nghề, ngành nghề truyền thống được UBND tỉnh công nhận. Một số sản phẩm như nước mắm, chè vằng, tiêu Cùa, rượu Xika… đã có thương hiệu trong và ngoài tỉnh. Hoạt động đào tạo khởi sự doanh nghiệp, nâng cao năng lực quản lý cho trên 220 lượt người, chủ yếu là các doanh nghiệp, cán bộ quản lý các cơ sở CNNT, cán bộ làm công tác khuyến công theo các chuyên đề về khởi sự doanh nghiệp, quản trị doanh nghiệp, quản lý tài chính, tiếp thị sản phẩm, sản xuất sạch hơn,... tổ chức được 08 đoàn đi khảo sát, học tập, trao đổi kinh nghiệm, tìm hiểu các mô hình sản xuất trong nước cho các cơ sở CNNT trên địa bàn tỉnh theo các chuyên đề: chế biến nông - lâm - thủy sản, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ nội thất, cơ khí, thêu ren xuất khẩu... tổ chức các hội thảo chuyên đề phục vụ phát triển ngành về Tăng cường năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp Quảng Trị, Phát triển ngành cơ khí tỉnh Quảng Trị, Phát triển làng nghề-ngành nghề TTCN, Phát triển công nghiệp hỗ trợ…



Nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất, đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao năng suất chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp, tiẻu thủ công nghiệp, giải quyết việc làm cho lao động, đã hỗ trợ xây dựng 23 mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất tiên tiến, sản xuất sản phẩm mới, giới thiệu các mô hình sản xuất kinh doanh hiệu quả. Hỗ trợ cho 78 cơ sở CNNT đầu tư ứng dụng, đổi mới công nghệ, thiết bị, mở rộng sản xuất, xử lý ô nhiểm môi trường. Hỗ trợ thực hiện 11 cơ sở đăng ký nhãn mác, xây dựng thương hiệu cho một số sản phẩm tiểu thủ công nghiệp. Kinh phí thực hiện cho Chương trình này là 3.798 triệu đồng trong tổng vốn đầu tư của chủ cơ sở CNNT tham gia thực hiện và thụ hưởng khoảng 91 tỷ đồng. Trong đó khuyến công quốc gia hỗ trợ xây dựng 03 mô hình, với kinh phí 410 triệu đồng, thu hút được 21,203 tỷ đồng vốn đầu tư của doanh nghiệp.. Một số mô hình trình diễn thực hiện và đến nay đang phát triển, tạo ra hiệu quả trong sản xuất và có tính nhân rộng cao như: Dây chuyền sản xuất và đánh bóng gạo của Công ty TNHH Hoành Huệ, hệ thống sấy nông sản sau thu hoạch ở Hải Lăng; sản xuất miến dong của Đoàn Kinh tế Quốc phòng 337,sản xuất củi ép từ trấu phế thải tại thị xã Quảng Trị, sản xuất tả giấy bằng công nghệ phun keo tự động…



Bằng nguồn kinh phí khuyến công của tỉnh và Trung ương đã hỗ trợ lập quy hoạch chi tiết cho 15 cụm công nghiệp với tổng kinh phí hỗ trợ là 1.360 triệu đồng và 01 điểm công nghiệp làng nghề bún Thượng Trạch, huyện Triệu Phong. Đến nay, toàn tỉnh đã quy hoạch được 16 cụm công nghiệp với tổng diện tích 518 ha và 02 điểm công nghiệp với diện tích 2 ha, cơ bản đáp ứng nhu cầu đầu tư sản xuất công nghiệp và di dời các cơ sở sản xuất trong khu dân cư vào cụm công nghiệp. Góp phần tích cực thu hút đầu tư phát triển công nghiệp - TTCN và di dời các cơ sở sản xuất ra khỏi khu vực dân cư, bảo vệ môi trường sinh thái, ổn định sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp.


Thông qua các kỳ hội chợ trong và ngoài tỉnh, khu vực giúp doanh nghiệp quảng bá thương hiệu sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, góp phần thúc đẩy công nghiệp nông thôn phát triển. Trực tiếp và vận động hỗ trợ hàng chục doanh nghiệp công nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh tham gia tham gia hội chợ triển lãm hàng công nghiệp nông thôn tiêu biểu tại các tỉnh Bắc Trung bộ, khu vực miền Trung – Tây Nguyên; hội chợ triễn lãm trong và ngoài tỉnh; Tổ chức bình chọn sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh năm 2012 và 2014. Kết quả có 40 sản phẩm được công nhân là sản phẩm CNNT tiêu biểu cấp tỉnh và có16 sản phẩm tham gia bình chọn khu vực miền Trung – Tây Nguyên.


Công tác thông tin, tuyên truyền, đã thực hiện và phát sóng hơn 108 chuyên đề “Trang Công Thương Quảng Trị, thực hiện chương trình đối thoại, gặp gỡ giao lưu nhâ ngày doanh nhân Việt Nam, ngày truyền thống ngành Công Thương..Đã biên tập và phát hành 26 số Bản tin/Đặc san Công Thương Quảng Trị (từ 2-4 số/năm), với trên 7.800 bản; Thường xuyên cập nhật các tin bài, hình ảnh hoạt động khuyến công lên trang thông tin điện tử khuyến công Quảng Trị, Tạp chí Công thương, Bản tin khuyến công của Bộ Công thương...Thực hiện biên tập và xuất bản “Tài liệu công tác khuyến công” để cung cấp cho các cơ sở CNNT hệ thống các văn bản pháp luật về công tác khuyến công.


Từ một tỉnh chủ yếu là nông nghiệp, Quảng Trị đã từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ. Năm 2005 cơ cấu kinh tế trong lĩnh vực công nghiệp-xây dựng chiếm 25,7%, nông nghiệp từ 35,9%, dịch vụ 38,4% thì đến năm 2012 công nghiệp-xây dựng là 37,1% và nông nghiệp còn 26,3% và dịch vụ 36,6%.


Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động khuyến công trên địa bàn tỉnh vẫn còn gặp không ít khó khăn. Hiện nay, nguồn vốn khuyến công chủ yếu ngân sách tỉnh, chưa tranh thủ tối đa từ nguồn vốn khuyến công quốc gia và chưa động viên, huy động được nhiều nguồn lực khác tham gia; Hồ sơ thủ tục cho đề án khuyến công vẫn còn phức tạp; Chưa xây dựng được các đề án khuyến công có tầm ảnh hưởng lớn, có vai trò làm hạt nhân thúc đẩy; Đã triển khai 7 nội dung của Chương trình hoạt động khuyến công nhưng vẫn chưa đồng bội giữa các nhiệm vụ cả về nội dung và nguồn kinh phí thực hiện; Công tác đào tạo nghề, truyền nghề và du nhập nghề mới chưa đạt được hiệu quả như mong đợi, công tác tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, đầu ra cho sản phẩm làng nghề, ngành nghề truyền thống vẫn hạn chế.


Tuy nguồn hỗ trợ không lớn nhưng thời gian qua, hoạt động khuyến công trên địa bàn đã có tác động tích cực đối với khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, đẩy mạnh phát triển sản xuất và tạo việc làm cho lao động nông thôn địa phương. Điều này cũng khẳng định hoạt động khuyến công là một chủ trương, một hướng đi phù hợp để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Những kết quả sau 10 năm, hoạt động khuyến công đã tạo tiền đề để tiếp tục đẩy mạnh trong giai đoạn tới nhằm mục tiêu Khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp - TTCN một cách bền vững, gắn chế biến với phát triển vùng nguyên liệu, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nông thôn mới; Nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu, giảm thiểu phát thải góp phần bảo vệ môi trường; Góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả sản xuất và tăng khả năng cạnh tranh của các cơ sở CNNT trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế./.

 


Nguyễn Văn Trình- GĐ Trung Khuyến công và XTTM Quảng Trị