Di dân tái định cư là một trong những công việc quan trọng và gian nan nhất của dự án Thủy điện Sơn La. 19.990 hộ dân với 96.000 nhân khẩu của 3 tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu đã phải rời bỏ quê hương bản quán để nhường lại diện tích hơn 225 km2 cho lòng hồ.

Với trên 300 điểm tái định cư, không phải nơi nào cũng thật sự mỹ mãn nhưng cũng phải khẳng định Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương và EVN đã rất cố gắng trong việc bố trí nơi ăn chốn ở cho hàng vạn con người.

Chuyện của dân khảo sát

Với nhiệm vụ tìm nơi tái định cư cho bà con, anh Vũ Văn Tuấn, trưởng phòng tái định cư của Ban Quản lý dự án Thủy điện Sơn La và các đồng nghiệp đã mò mẫm trên những vùng đất hoang sơ từ khi chưa có dấu chân người. Việc tìm chỗ ở cho gần 20.000 hộ dân với những tập quán phong tục khác nhau đâu có đơn giản, nhất là với các anh, tiếng dân tộc không biết, địa hình không thuộc. Các anh phải nhờ các già làng trưởng bản chỉ cho nơi nào cây mọc tốt, nơi nào có suối nước, dễ mở đường rồi đích thân đến đo đạc, ngắm nghía, sau đó bàn giao lại cho bên khảo sát địa chất nghiên cứu lập quy hoạch tái định cư. Đi khảo sát các anh chỉ có cách đi thuyền vượt thác ghềnh trên sông Đà hoặc thuê xe ôm rồi đi bộ trong rừng, những lần hút chết vì gặp thác lũ hoặc bị lạc trong rừng không còn là chuyện lạ. Nghĩ lại lần đầu tiên vượt sông Đà vào Nậm Khao (Lai Châu) trên chiếc thuyền nhỏ thuê của dân mà vẫn còn muốn ‘‘vãi linh hồn’’. Đã đầu mùa lũ, trên sông lác đác đã có những cây gỗ trôi, mạn thuyền mấp mé nước khiến anh cứ nghĩ khôn nghĩ dại, lỡ ra chiếc thuyền mỏng manh va phải cây gỗ trôi nào đó thì chắc không kịp nhắn gửi gì vợ con. Bây giờ nghĩ lại vẫn thấy buồn cười về sự ‘‘ham sống sợ chết’’ của mình.

Anh cũng không sao quên được lần vượt thác Chiềng Bằng, sự chênh lệch giữa các ghềnh nước cao hàng mét khiến chiếc thuyền xuống ghềnh cứ lao sầm sầm như phim hành động khiến các anh thót hết cả tim nhưng lúc vượt thác thì thuyền cứ ì ra quay tròn tại chỗ. Trong đoàn cùng vượt thác Chiềng Bằng hôm ấy, có một chiếc thuyền bị vỡ 1 mảnh gỗ. Ông lái thuyền hô anh em dùng bao tải nút thuyền lại rồi tấp nhanh vào bờ để sửa chữa. Nghĩ lại vẫn còn hoảng.

Vượt sông sợ lũ nhưng đi rừng cũng chẳng khá hơn. Anh Tuấn vẫn chưa quên lần đi từ huyện Sông Mã đến Mường Lụm. Ngồi trên chiếc xe ôm len lách trên con đường một bên là vách núi, một bên là vực thẳm, thỉnh thoảng những cành cây lại sà xuống đầu như muốn chắn đường. Tất cả mọi tinh lực tập trung hết về phía trước, cầu trời khấn phật cho chuyến đi an toàn. Đến nơi mới biết máu chảy khắp người vì vắt cắn. Sau này các anh có kinh nghiệm dùng cao con hổ hoặc thuốc DEP bôi lên người để chống vắt. Tuy nhiên, đi vất vả mà được việc còn đỡ, có những chuyến ‘‘đi không về rồi’’ mới khổ. Lần đi từ Sông Mã lên tận Mường Lèo có cả ông Vũ Đức Thìn (khi đó trưởng ban quản lý chuẩn bị đầu tư dự án Thủy điện Sơn La). Quãng đường dài 27 cây số đường rừng, đi xe ôm được 5 km thì xe đầu hàng. Cả đoàn đi bộ leo những con dốc dựng đứng, thậm chí nhiều đoạn phải bò. Tối mịt đến được nhà trưởng bản 2 chân đã sưng vù. Lúc về ông Thìn mệt quá muốn thuê ngựa nhưng bà con nhìn dáng người béo lùn của ông cười “ngựa của tao chỉ thồ được 30 kg thôi, mày nặng lắm nó không chở đâu”. Thế là lại cuốc bộ ngược suối sang huyện Điện Biên Đông để nhờ xe ra thị xã Điện Biên.

Vất vả thế nhưng Mường Lèo không được chọn làm nơi tái định cư vì không đủ điều kiện về nước nôi. Chuyến đi về Quỳnh Nhai (Sơn La) cũng “xôi hỏng bỏng không” vì trên bản đồ tỷ lệ 1/50.000 thấy vùng này khá đẹp, đến nơi mới thấy đất ở đây quá dốc nên phải bỏ. Sau này các anh đã có kinh nghiệm: làm việc trực tiếp với các già làng trưởng bản trước, nơi nào được thì lập dự án báo cáo lên trên. Cách này hiệu quả và nhanh hơn hẳn so với cách lập dự án báo cáo rồi mới đi khảo sát như trước kia.

Tái định cư cho người chết

Dòng sông Đà không chỉ là nguồn tiềm năng vô tận của thủy điện mà còn là dòng sông của những truyền thuyết, huyền thoaị, địa tầng văn hóa vật thể và phi vật thể. Khi Thuỷ điện Sơn La đi vào hoạt động, cả một vùng rộng lớn dọc thượng nguồn sông Đà, từ Pa Vinh (Sơn La) lên tận Mường Lay- Nậm Na (Điện Biên) sẽ chìm sâu dưới hàng trăm mét nước nơi lòng hồ. Để giữ gìn những di sản văn hóa ở đây, một đoàn khảo cổ đã được cử về công tác. Với anh Tuấn, những buổi vật lộn với thác lũ, những chuyến ăn cơm nắm trên bờ suối cùng các giáo sư khảo cổ học là may mắn lớn trong đời anh. Anh thật sự cảm phục về sự nghiêm túc, say nghề của giáo sư Nguyễn Lân Cường, giáo sư Nguyễn Khắc Sử khi họ mê mải bò nhoài bên những bộ xương vừa khai quật từ những ngôi mộ cổ để ngắm nghía, lau chùi, nâng niu cất giữ như báu vật. Tại Hang Tọ 1 và Hang Tọ 2 (huyện Quỳnh Nhai – Sơn La) đoàn đã tìm được 10 ngôi mộ cổ có niên đại cách đây khoảng 3.000 năm. Lạ nhất là những vật dụng họ mang theo khá tinh xảo, có những bình gốm khá đẹp. Xương của họ vẫn còn nguyên vẹn, nhất là bộ răng khá “chuẩn’’. Các nhà khảo cổ phải phun một loại hóa chất để giữ cho xương cứng lại rồi đưa về Viện khảo cổ học nghiên cứu hoặc bàn giao cho nhà trưng bày của tỉnh cùng các di chỉ khai quật được.

Tuy nhiên, việc tìm nơi an nghỉ cho những ngôi mộ cổ dù sao cũng còn dễ dàng hơn việc “tái định cư” cho những ngôi mộ thời nay. Chả là đồng bào Thái vùng Sơn La vốn có tục bỏ mả, đây là tục lệ nhằm cắt đứt sự thương nhớ ràng buộc giữa người sống và người chết để người chết được siêu thoát. Điều đó đã khiến cho hàng ngàn ngôi mộ quanh khu vực Thủy điện Sơn La trong tình trạng vô chủ. Thế nhưng, khi san lấp mặt bằng xây dựng nhà máy, các anh vẫn phải thu gom hài cốt, làm lễ cúng rất cẩn thận rồi quy tập về nghĩa trang Ít Ong. Thậm chí có những ngôi mộ đào lên vẫn chưa phân hủy hết nhưng các anh vẫn thu gom di dời rất chu đáo. Khi được hỏi tại sao bà con đã bỏ mả mình còn phải “tái định cư” cho những ngôi mộ này, anh Tuấn cười: “Cái nghiệp xây dựng nó phải thế, vừa để giữ vệ sinh môi trường, vừa để lương tâm mình được thanh thản”.

Nỗi băn khoăn hậu tái định cư

Có lẽ tốn kém và phức tạp nhất trong Dự án Thủy điện Sơn La là vấn đề tái định cư. Tính đến nay, số tiền đầu tư vào chương trình này đã vượt lên hơn chục ngàn tỷ đồng. Cả 3 tỉnh Sơn La, Điện Biên và Lai Châu có 89 khu với 302 điểm tái định cư có khả năng tiếp nhận 21.884 hộ. Để ổn định đời sống, phát triển sản xuất cho các hộ tái định cư, các ngành và chính quyền địa phương đã tổ chức nhiều lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật, hướng dẫn lập phương án sản xuất, triển khai một số mô hình canh tác trên đất dốc, mô hình trồng tre lấy măng, trồng cây ăn quả, mô hình chăn nuôi lợn, mô hình trồng rau an toàn, trồng khoai tây, hỗ trợ trồng cây cao su và một số cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao... Bình quân mỗi hộ tái định cư được bố trí từ 1,3ha đến 1,5ha đất. Trong đó, phần lớn quỹ đất tái định cư do người dân sở tại (nơi đến) nhường lại để phục vụ dự án di dân. Dĩ nhiên, số hộ này đã được Nhà nước hỗ trợ 51 triệu đồng/ha nên họ rất phấn khởi và… tự nguyện nhường đất.

Sau mấy năm về nơi tái định cư ở, hầu hết bà con đã thích nghi với cuộc sống mới. Cuộc sống tự cung tự cấp đã dần được “kinh tế thị trường” bằng cách chăn nuôi, trồng trọt đem ra chợ bán lấy tiền mua những thứ mình cần. Trước đây, hầu hết bà con đều quen canh tác theo kiểu quảng canh, du canh, nay phải học cách quay vòng đồng vốn liên tục bằng cách trồng ngô để chăn nuôi lợn gà hoặc chế biến thành hàng hóa. Bà con đang cố gắng tìm cách phát triển kinh tế để hòa nhập với cuộc sống mới. Ông Hoàng Văn On (bản Mai Sơn) tâm sự: “Về đây việc học hành và đi lại của các cháu thuận tiện hơn nhiều. Các cháu đi học cách khoảng 7 cây số có xe buýt đưa đón sướng lắm, không phải đi bộ như ngày xưa”. Ông Lò Văn Liêm - Phó Chủ tịch xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn, cho biết: “Khu tái định cư Tân Quỳnh của xã Cò Nòi được coi là vùng đất khó nhưng đến nay cuộc sống bà con đã tạm ổn. Rất nhiều hộ gia đình đã biết vay vốn phát triển kinh tế, chăn nuôi. Chính quyền cũng rất quan tâm hỗ trợ bà con công sức để dựng nhà, hướng dẫn trồng trọt trên đất mới.

Ở nhiều nơi, bà con còn tận dụng cả những lối vào nhà để trồng cỏ voi nuôi bò, chăn trâu. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lên đề án giúp các tỉnh xây dựng mô hình điểm tái định cư (mỗi tỉnh một mô hình) theo hướng đầu tư lồng ghép các nguồn vốn thuộc các chương trình, dự án. Đồng thời, triển khai xây dựng chính sách đặc thù “hậu tái định cư”, tiếp tục hỗ trợ, đầu tư phát triển toàn diện, bền vững cho các xã có điểm tái định cư và các hộ tái định cư trong nhiều năm sau tái định cư. Tất nhiên, ở nhiều nơi bà con đang lúng túng trong việc tìm hướng sản xuất mới nên rất thụ động trông chờ vào nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước. Ông Ksor Phước- Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội- cho biết, rút kinh nghiệm từ những cuộc tái định cư khác, Đoàn giám sát Ủy ban Thường vụ quốc hội đề nghị Chính phủ có chính sách “Hậu tái định cư Thủy điện Sơn La”, trọng tâm là tiếp tục ưu tiên đầu tư xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và dân sinh cho các xã có điểm tái định cư; Đầu tư phát triển sản xuất toàn diện và bền vững cho các hộ dân, có chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội cho các hộ dân trong thời gian ít nhất 5 năm tính từ khi hoàn thành việc tổ chức di dân đến nơi tái định cư.
 

CTV. Ngọc Loan