Hiệp hội Chè Việt Nam kỳ vọng, với Hội nghị Quốc tế Chè lần thứ 2 sẽ mang lại diện mạo mới cho ngành chè Việt Nam, là cơ hội để chè Việt Nam giao thương, quảng bá thương hiệu với chè thế giới


 

Nhiều bất cập

Ngành chè Việt Nam có bề dày hơn 50 năm. Cả nước có 650 doanh nghiệp sản xuất nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập về tính tổ chức. Cơ cấu ngành công nghiệp chè vẫn bị coi là manh mún, lạc hậu. Trong khi năng suất bình quân đạt 6 tấn/ha, nhưng năng lực chế biến toàn ngành chè cao gấp hai lần so với khả năng cung ứng nguyên liệu, dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán búp tươi diễn ra khắp các vùng chè trên cả nước.

Tính phân định trong ngành thấp, không chuyên nghiệp bởi nhiều doanh nghiệp xuất khẩu tự đầu tư vào chế biến và doanh nghiệp chế biến lại tìm mọi cách để xuất khẩu. Các nhà máy chế biến không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh vẫn tiếp tục hoạt động, tạo ra những sản phẩm kém chất lượng.

Ông Đoàn Anh Tuân, Chủ tịch Hiệp hội chè Việt Nam, cho biết, phần lớn các sản phẩm chè Việt Nam bị đánh giá là thấp, do đó giá bán chỉ tương đương 50% so với giá chè trung bình của Srilanka. Chất lượng chè phụ thuộc vào khâu thu hái nhưng hầu hết người làm chè vẫn trồng theo tập quán, thu hái chè bằng liềm. Quy định chè nguyên liệu phải hái ngắn, mỗi tôm chè chỉ 2 lá, nhưng để tăng sản lượng, bà con vẫn hái tới 8-10 lá.

Ở nhiều vùng, cây chè bị thoái hóa vẫn không được trồng mới. Người trồng chè vẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón không đúng cách… Vấn đề liên kết 4 nhà mới dừng lại ở mặt lý thuyết, khó áp dụng vào thực tế. Mỗi quan hệ giữa nhà nông và nhà chế biến rất lỏng lẻo. Quan hệ nhà khoa học và nhà chế biến cũng không khá hơn.

Chính phủ dành không ít tiền cho nghiên cứu phát triển công nghiệp chè, nhưng các vấn đề được nghiên cứu lại không theo nhu cầu của doanh nghiệp. Chè được trồng không đều, có vườn thu hoạch 20 tấn/ha nhưng có vườn chỉ thu được 1-2 tấn/ha.

Việt Nam đứng thứ 5 thế giới cả về sản lượng và xuất khẩu, sau Ấn Độ, Trung Quốc, Srilanka, Kendia và ngang bằng với Indonesia. Năm 2009, Việt Nam sản xuất 160.000 tấn chè, trong đó xuất khẩu 130.000 tấn, đến hơn 100 quốc gia như Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan…

Mặc dù sản lượng tăng hàng năm, tỷ lệ xuất khẩu cao nhưng 99% nhưng chè Việt hầu hết xuất khẩu dưới dạng thô, với giá 1,5 USD/kg nên ngoại tệ thu về không bao nhiêu mà lại tiêu tốn một lượng lớn than, điện…

Theo Hiệp hội chè Việt Nam, ngành chè có nhiều cơ hội mở rộng thị trường, nhưng khâu quảng bá thương hiệu sản phẩm chưa đến được với người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Thời kỳ bao cấp, chè Việt Nam chủ yếu xuất khẩu dưới dạng trao đổi hàng hóa sang Liên xô. Thời kỳ này, chè Việt Nam được trộn lẫn, đóng gói thành phẩm dưới nhãn mác chè Ấn Độ. Tuy vậy, khi Liên xô tan vỡ, chè Việt Nam mất luôn thị trường này, rơi vào khủng hoảng và suốt thời gian dài, không được giới thiệu, quảng bá. Năm 2005, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) đã hỗ trợ ngành chè xây dựng thương hiệu. Đây là vấn đề quan trọng nhưng bản thân lãnh đạo ngành chè khi đó chưa hiểu thế nào là thương hiệu nên đã sử dụng không hiệu quả nguồn đầu tư này. Hầu hết nguồn hỗ trợ đều đổ vào việc nhận diện logo chè Việt Nam- đây không phải là vấn đề riêng của ngành chè mà còn với một số ngành khác vào thời kỳ đó.

Hiện nay, các sản phẩm chè đa dạng hơn cả về chất lượng, mẫu mã nhưng doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa xây dựng được thương hiệu, chưa xuất khẩu được chè thành phẩm tới tay người tiêu dùng. Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chè thuộc diện nhỏ, ít kiến thức maketing, kinh nghiệm đàm phán ký kết hợp đồng thương mại còn nhiều sơ hở, dễ bị đối tác ép giá…

Giải pháp đồng bộ

Năm 2010, Hiệp hội chè Việt Nam đặt mục tiêu tăng khối lượng chè sang thị trường châu Âu lên 40.000 tấn và đến năm 2015, sẽ có khoảng 50% chè Việt sẽ xuất khẩu sang thị trường này. Theo ông Hoàng Kháng, Giám đốc Công ty cổ phần chè Chiềng Ve, muốn xây dựng thương hiệu, cần có những sản phẩm chất lượng cao, giá thành hợp lý.

Để đạt mục tiêu này, “cần nhiều biện pháp tổng thể để giải quyết những tồn tại của ngành chè”- ông Đoàn Anh Tuân xác định. Cùng với việc nghiên cứu trình Chính phủ các chế tài giám sát, quản lý ngành, Hiệp hội Chè Việt Nam đang nhanh chóng hoàn tất, trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chiến lược phát triển ngành chè đến năm 2020 tầm nhìn 2030. Bên cạnh đó, vấn đề kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên lá chè cũng sẽ được đưa vào chương trình trọng điểm.

Thời gian tới, theo ông Tuân, ngành chè Việt Nam sẽ đặc biệt coi trọng việc đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh quảng bá giới thiệu sản phẩm. Xác định, chè là sản phẩm thực phẩm, việc cấp phép chế biến phải có điều kiện, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

Tới đây, các cơ quan có thẩm quyền sẽ rà soát lại, chỉ cấp giấy chứng nhận chế biến cho các doanh nghiệp có đủ tiêu chuẩn. Để Việt Nam có thể trở thành nước chế biến chè, Hiệp hội cũng đang kiến nghị bỏ thuế nhập khẩu chè vào Việt Nam. Ngoài các giải pháp trên, ngành chè tiếp tục củng cố các thị trường xuất khẩu cũ như Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan… thúc đẩy các doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc tìm kiếm thị trường mới, tạo cơ hội xuất khẩu cho chè Việt.
 

Hải Vân, Báo Công Thương điện tử