Giai đoạn 2016 - 2020, Bình Phước dự kiến đầu tư 126,34 tỷ đồng cho hoạt động khuyến công. Trong đó, ngân sách trung ương hỗ trợ 18,8 tỷ đồng và ngân sách địa phương 18,54 tỷ đồng. Các nguồn khác: 89 tỷ đồng (bao gồm tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân và nguồn đối ứng của đơn vị thụ hưởng). Hướng tới mục tiêu lâu dài

Từ nguồn kinh phí này, Bình Phước sẽ hỗ trợ đào tạo và truyền nghề cho 750 lao động theo nhu cầu của các cơ sở công nghiệp nông thôn (CNNT); hỗ trợ thành lập mới cho 100 doanh nghiệp và 1.000 học viên tham gia các khóa bồi dưỡng kiến thức về khởi sự doanh nghiệp, nâng cao năng lực quản lý và nâng cao nhận thức về lợi ích của việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp; Xây dựng 5 mô hình trình diễn kỹ thuật áp dụng công nghệ mới, sản xuất sản phẩm mới; hỗ trợ 100 cơ sở CNNT đổi mới công nghệ, ứng dụng máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất sản phẩm; Tổ chức cho 200 lượt cơ sở CNNT tham gia Hội chợ triển lãm và đăng ký thương hiệu cho 13 cơ sở CNNT; Lập quy hoạch chi tiết, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và sửa chữa, nâng cấp hệ thống xử lý chất thải cho 04 cụm công nghiệp (CCN); Thông tin tuyên truyền sâu rộng trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng về hoạt động khuyến công, đặc biệt là nhận thức về lợi ích áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp; Hoàn thiện quy trình quản lý và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện hoạt động khuyến công các cấp.


Đặc biệt, tỉnh dành 5,5 tỷ đồng để thực hiện hỗ trợ: Thành lập 2 hiệp hội ngành nghề CNNT; 4 mô hình liên kết sản phẩm tiểu thủ công nghiệp với hoạt động du lịch; lập và quy hoạch chi tiết cho 1 cụm công nghiệp; đầu tư xây dựng hạ tầng 1 CCN. Đồng thời, dành một phần kinh phí hỗ trợ cho các cơ sở CNNT sửa chữa, nâng cấp hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường cho CCN và cơ sở CNNT.


Ngoài ra, Tỉnh cũng dành kinh phí để hỗ trợ cho các chương trình: Nâng cao năng lực quản lý cho cơ sở CNNT; phát triển sản phẩm CNNT tiêu biểu; phát triển hoạt động tư vấn; hỗ trợ cung cấp thông tin; hợp tác quốc tế về khuyến công và nâng cao năng lực quản lý, tổ chức thực hiện.


Ưu tiên hỗ trợ sản xuất  sản phẩm có lợi thế của tỉnh


Riêng năm 2016, Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Bình Phước (Trung tâm) đang tập trung ưu tiên hỗ trợ các cơ sở CNNT sản xuất  sản phẩm có lợi thế của Tỉnh phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu, thay thế hàng nhập khẩu; tập trung hỗ trợ cho các cơ sở vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về khuyến công; tăng cường phối hợp với các cấp, ngành liên quan, tổ chức đoàn thể, các hiệp hội. Đa dạng hóa các nguồn vốn khác ngoài ngân sách địa phương; xây dựng đề xuất dự án khuyến công, tiết kiệm năng lượng phù hợp quy định của Bộ Công Thương cũng như vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế. Trung tâm đã và đang  nỗ lực đưa ra các giải pháp để phát huy những tiềm năng, lợi thế sẵn có của địa phương, giúp các cơ sở, doanh nghiệp nâng cao giá trị sản phẩm, tạo việc làm, phân bố lại lao động, góp phần phát triển CNNT theo đúng định hướng của Tỉnh và Bộ Công Thương.


Vẫn còn nhiều khó khăn


Theo ông Vũ Duy Khiên, giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Bình Phước, hầu hết các đề án được Trung tâm thực hiện trong những năm qua không chỉ giúp cơ sở CNNT cải thiện sản xuất, tăng doanh thu lợi nhuận mà còn phát huy được thế mạnh của địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Trung tâm khuyến công Bình Phước vẫn gặp không ít trở ngại do nguồn nhân lực còn thiếu, chất lượng chưa bảo đảm, nhất là đối với các huyện vùng sâu, vùng xa. Điều này khiến ngay từ khâu khảo sát, xây dựng đề án đã không đạt yêu cầu, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai, thậm chí phải dừng thực hiện. Việc tư vấn cho cơ sở CNNT  đầu tư, ứng dụng tiến bộ khoa học và mở rộng quy mô sản xuất cũng gặp nhiều khó khăn. Nguồn kinh phí của cả Trung ương và địa phương bố trí cho khuyến công quá ít so với nhu cầu cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả chương trình.


Cũng theo ông Khiên, những trở ngại trên xuất phát từ nguyên nhân cán bộ làm công tác khuyến công tại các huyện, thị xã trên địa bàn tỉnh ít, thường là cán bộ kiêm nhiệm, thường xuyên thay đổi nên kinh nghiệm còn hạn chế. Đa số các cơ sở CNNT là doanh nghiệp nhỏ, hộ cá thể nên yếu về tiềm lực tài chính và khả năng huy động vốn, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, sản phẩm đơn điệu, thiếu kế hoạch, chiến lược phát triển dài hạn nên dễ có biến động trong quá trình đầu tư. Một bất cập nữa đó là quá trình từ khi khảo sát, xây dựng đề án đến khi có quyết định phân giao thực hiện thời gian kéo dài đến trên 6 tháng, một số cơ sở vướng mắc về tài chính, công nghệ… dẫn đến không triển khai được phải xin ngừng hoặc điều chỉnh làm ảnh hưởng đến kế hoạch chung.


Để khắc phục tình trạng này, tỉnh Bình Phước đã xây dựng nhiều giải pháp. Theo đó, khuyến công thực hiện hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm cho các ngành nghề, sản phẩm tiêu biểu, chủ lực của Tỉnh trên cơ sở tận dụng mọi nguồn lực của địa phương. Chú trọng khuyến khích các đề án ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và tăng cường công tác chuyển giao công nghệ mới nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Giảm thiểu việc xây dựng chương trình, đề án dàn trải, nhỏ lẻ, tăng cường xây dựng đề án mang tính liên kết, mở rộng. Nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề, truyền nghề và phát triển nghề gắn với nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp để giải quyết việc làm cho người lao động sau đào tạo. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về hoạt động khuyến công tới các doanh nghiệp. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền phong phú, đa dạng với nội dung thiết thực, phù hợp với từng đối tượng.


Để các giải pháp này được thực thi một cách hiệu quả, Bình Phước đang kiến nghị với Cục Công nghiệp địa phương tăng cường giới thiệu các đề án khuyến công quốc gia điển hình, có hiệu quả cao được tổ chức thực hiện ở các tỉnh để các địa phương học tập, tăng khả năng nhân rộng. Đối với dạng đề án hỗ trợ ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến, hiện đại vào sản xuất, đề nghị được lập theo nhóm đối tượng thụ hưởng để chủ động hơn trong công tác xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện đề án.


Ngọc Doanh